VĂN KIỆN QUỐC HỘI TOÀN TẬP TẬP VI(QUYỂN 2) 1984 - 1987

THUYẾT TRÌNH
CỦA ỦY BAN VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC CỦA QUỐC HỘI
VỀ THỰC HIỆN CẢI CÁCH GIÁO DỤC VÀ TÌNH HÌNH QUẢN LÝ VĂN HÓA
(Do ông Trần Độ, Chủ nhiệm Ủy ban văn hóa và giáo dục của Quốc hội
trình bày tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa VII, ngày 24-12-1984)

Thưa Quốc hội,

Thưa các vị đại biểu,

Trong năm 1984, Uỷ ban văn hoá và giáo dục vẫn hướng sự quan tâm của mình vào việc thực hiện cải cách giáo dục, với những nội dung là xem xét các vấn đề: quy mô phát triển giáo dục, phổ cập cấp I, cơ cấu giáo dục, mục tiêu giáo dục và đội ngũ giáo viên là lực lượng quyết định chất lượng giáo dục và thực hiện mục tiêu giáo dục. Đồng thời, Ủy ban bắt đầu quan tâm tới một vấn đề mới về văn hóa, đó là tình hình quản lý văn hóa.

Như mọi năm, Ủy ban đã nghe báo cáo của các Bộ có liên quan và đi khảo sát tình hình các địa phương. Ủy ban đã có những đoàn đi các tỉnh vùng núi Tây Bắc (Sơn La, Lai Châu) các tỉnh vùng đồng bằng Bắc bộ (Thái Bình, Hải Phòng), các tỉnh miền Nam (Thành phố Hồ Chí Minh và An Giang) các tỉnh Tây Nguyên (Gia Lai - Kon Tum, Đắc Lắc), đồng thời có nghe báo cáo của một số cơ sở văn hóa, giáo dục ở Hà Nội.

Ủy ban chúng tôi xin báo cáo một số nhận xét và ý kiến sau đây:

I- VỀ GIÁO DỤC

1. Một nét chung cần nói là trình độ phát triển giáo dục của các vùng chênh lệch nhau rất lớn. Ở đồng bằng Bắc bộ và các thành phố, thị xã có thể nói ta đã tạo nên những vùng dân cư có văn hóa khá cao: ở Thái Bình, cứ 30 người dân có một người tốt nghiệp cấp III, ở Hải Phòng tỷ lệ còn cao hơn: 1/20. Nếu chỉ tính lứa tuổi thanh niên (chiếm 30% dân số) thì cứ 10 người có một người tốt nghiệp cấp III. Ở những nơi này, 80 - 95% các cháu đến tuổi đi học đã được thu hút vào lớp 1. Thành phố Hồ Chí Minh có một việc làm tích cực là mở nhiều lớp học đêm cho trẻ em nghèo, các lớp này đã thu hút hơn 50.000 em và còn đang phát triển.

Gia Lai - Kon Tum và Đắc Lắc là hai tỉnh miền núi có nhiều dân tộc thiểu số, nhưng ở đây, điều kiện giao thông tương đối thuận lợi, cấp uỷ và chính quyền các cấp quan tâm nhiều đến sự nghiệp giáo dục (đặc biệt là tỉnh Đắc Lắc), nên sự nghiệp giáo dục phổ thông phát triển nhanh và mạnh). Tất cả các xã đều đã có trường phổ thông cơ sở, trong đó đa số trường có cấp II. Ở tỉnh Gia Lai - Kon Tum, chỉ có 50/303 trường phổ thông cơ sở các loại chưa có cấp II; ở tỉnh Đắc Lắc, trong số 178 trường phổ thông cơ sở thì chỉ còn hơn 10 trường chưa có cấp II. Ở các vùng thị xã, thị trấn 90 - 95% các cháu đến tuổi học đã đến trường, học lớp 1. Các huyện đều có trường thiếu niên dân tộc nội trú. Cấp tỉnh có trường cấp III nội trú cho các con em dân tộc thiểu số. Có hình thức "bán trú" (học sinh mang gạo và thực phẩm đến tự nấu ăn) để thu hút con em các dân tộc thiểu số đi học. Nhưng các tỉnh miền núi khác và một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long thì còn nhiều khó khăn. Do những điều kiện địa hình phức tạp, dân cư ở phân tán, giao thông khó khăn, trình độ nhận thức về giáo dục không rõ, nên sự nghiệp giáo dục rất khó phát triển. Số các em đến tuổi, cần được đi học mà đã đến trường chiếm tỷ lệ thấp, các lớp cấp I không hoàn chỉnh, đa số trường phổ thông cơ sở ở các xã chỉ có đến lớp 2 và lớp 3. Cả tỉnh Lai Châu có 100 trường, chỉ có cấp I, và 63 trường có cấp II. Không có nguồn để đào tạo giáo viên và cán bộ. Giáo viên ở các nơi khác đến gặp muôn vàn khó khăn về đời sống và công tác. Trong số 4.000 giáo viên của tỉnh Lai Châu thì chỉ có 700 là người dân tộc (đa số là giáo viên cấp I. Năm 1983, Bộ Giáo dục điều cho tỉnh 60 giáo viên, đến tháng 4-1984, tỉnh mới tiếp nhận được 20 người. Các tỉnh miền núi đều đã quan tâm mở các loại trường nội trú dành cho con em các dân tộc thiểu số, nhưng vẫn khó duy trì đủ số học sinh, vì các trường này chưa đủ sức hấp dẫn đối với các em.

Như vậy, mục tiêu phổ cập cấp I cho toàn thể các cháu đến độ tuổi vẫn cần phải đặt ra ở nhiều mức độ đối với nhiều vùng khác nhau. Cần có yêu cầu cưỡng bách nhằm nâng cao trách nhiệm của các bậc cha mẹ đối với việc học tập của các con. Cần sớm ban hành Luật cải cách giáo dục hoặc tối thiểu phải có Luật phổ cập cấp I (trong chương trình làm luật của những năm 1984-1985 có dự kiến thông qua Luật cải cách giáo dục, nhưng cho đến nay chưa có cơ quan nào trình dự thảo). Phải có nhiều hướng giải quyết về kinh tế - xã hội thật tích cực và hợp lý ở các tỉnh miền núi mới thúc đẩy được sự nghiệp giáo dục. Đồng thời, phải có nhiều biện pháp đặc biệt cho giáo dục miền núi mới tạo được điều kiện đào tạo cán bộ kinh tế, xã hội, khoa học và văn hóa cho miền núi.

2. Về cơ cấu hệ thống giáo dục, vẫn còn nhiều mâu thuẫn và khó khăn cho việc sử dụng học sinh ra trường. Hội đồng Bộ trưởng đã có nhiều chủ trương, chỉ thị tích cực về vấn đề này, nhưng việc thực hiện còn chậm chạp:

- Việc sắp xếp lại mạng lưới các trường đại học, cao đẳng chưa làm xong. Bộ Đại học chưa tiếp nhận được đủ các trường cần tiếp nhận, vì nhiều Bộ, ngành chưa giao.

- Việc tuyển sinh có được cải tiến chút ít nhưng chưa phải là khâu giải quyết vấn đề.

- Việc đẩy mạnh hướng nghiệp và dạy nghề có một số tiến bộ ở một số trường và một số địa phương nhưng chưa phải là một sự chuyển hướng cơ bản.

Hằng năm, chúng ta vẫn có vài chục vạn học sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở không được học tiếp mà cũng chưa có việc làm thích hợp để lao động, có hàng chục vạn học sinh tốt nghiệp phổ thông trung học không có việc làm và cũng chưa đủ trình độ nghề nghiệp để vào đời.

Về tình hình diễn biến phân luồng học sinh của ta trong mấy năm qua, xin xem phụ lục.

Vấn đề lớn đặt ra là cần cấu trúc lại hệ thống giáo dục để giải quyết mấy yêu cầu:

a) Phổ cập phổ thông cấp I cho tất cả thiếu niên trong độ tuổi, với những yêu cầu phù hợp với điều kiện từng vùng như đã nói trên.

b) Tất cả hoặc tuyệt đại bộ phận học sinh tốt nghiệp phổ thông cơ sở phải được học tập thêm bằng nhiều hình thức.

c) Cấp phổ thông trung học phải được tổ chức như thế nào để bảo đảm học sinh tốt nghiệp xong có thể lao động có nghề nghiệp ngay. Chúng tôi ủng hộ một số ý kiến như sau: Tất cả học sinh phổ thông trung học muốn vào đại học phải qua một thời gian lao động có nghề nghiệp 2 năm. Muốn vậy, hầu hết các trường phổ thông trung học cần được chuyển thành trường phổ thông trung học kỹ thuật hoặc trường phổ thông trung học dạy nghề. Việc dạy nghề ở các trường phổ thông trung học phải hoàn toàn căn cứ vào quy hoạch kinh tế và lao động của địa phương.

Hình thức phổ thông trung học này cộng với các hình thức phổ thông trung học buổi tối, bổ túc, có thể thu hút được phần lớn học sinh phổ thông cơ sở nhưng phải có chính sách rõ rệt với các hình thức học buổi tối và bổ túc. Vấn đề này phải được sự quan tâm và là trách nhiệm của toàn xã hội. Ví dụ: các cơ sở kinh tế quốc doanh và hợp tác xã cần có quỹ đào tạo, bao gồm những phí tổn giúp công tác hướng nghiệp cho các trường phổ thông và mở các lớp dạy nghề trong cơ sở, quỹ này phải được tính vào giá thành sản phẩm. Cần có các chính sách về cơ sở vật chất và chính sách đối với giáo viên, học sinh.

Chúng tôi đã xem xét trường trung học dạy nghề nông nghiệp Trần Hưng Đạo (trước là An Thái) ở Kiến An, Hải Phòng. Chúng tôi cho rằng đó là một mô hình trường trung học rất tốt. Cần khẳng định kinh nghiệm của nó và phổ biến rộng rãi.

Cần có một chính sách để kiểm tra, phát hiện và bồi dưỡng đặc biệt các em có năng khiếu để đào tạo nhân tài với hiệu suất cao, chú trọng đặc biệt các năng khiếu về khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật và quản lý.

- Đối với miền núi, chúng tôi thấy cần phải nhanh chóng có biện pháp đặc biệt: tăng số giáo viên lên nhiều lần (huy động các giáo viên đi như đi nghĩa vụ quân sự) bảo đảm chính sách ưu tiên cho giáo viên miền núi, có thể gấp hai lần giáo viên ở miền xuôi. Vì ở miền núi có những điểm dân cư phân tán và chỉ có 3 - 5 học sinh. Ở miền núi, đã phải có biện pháp giáo viên "cắm bản" nhưng những giáo viên "cắm bản" này phần lớn là nữ, gặp nhiều khó khăn về mọi mặt.

3. Cần có sự hướng dẫn để tất cả các trường tự xác định mục tiêu cụ thể của trường mình trong việc đào tạo các em ra trường. Chúng tôi đã thăm nhiều trường. Tuyệt đại bộ phận các hiệu trưởng đều chưa có ý thức xác định mục tiêu cụ thể cho trường mình (trừ trường Trần Hưng Đạo, chúng tôi vừa báo cáo trên), thường chỉ nhắc lại mục tiêu đào tạo chung chung. Điều này cũng còn yêu cầu Ủy ban nhân dân các cấp tỉnh và huyện cần căn cứ vào các mục tiêu kinh tế - xã hội để chỉ đạo việc xác định mục tiêu đào tạo cho từng trường. Các tỉnh Tây Nguyên đang có thuận lợi là các học sinh tốt nghiệp cấp II và cấp III đều được sử dụng mạnh mẽ, sử dụng hết. Nhưng các cháu ra trường và đi vào xã hội còn theo tính chất "tự nhiên chủ nghĩa". Chính quyền và nhà trường chưa điều khiển hoặc hướng dẫn được sự sử dụng này cho phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.

4. Về chất lượng giáo dục, chúng tôi được báo cáo là ở Hải Phòng, Thái Bình, có mặt chững lại, không tiếp tục giảm sút nữa, có mặt nhích lên; Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh An Giang thì báo cáo tiếp tục giảm sút. Nói chung lại là chưa có biến chuyển nào đáng kể và đáng mừng.

 Chúng tôi chú ý đặc biệt tới một tình hình là việc học tập và giảng dạy chính trị - đạo đức quá kém. Cuộc vận động giáo dục đạo đức có được thực hiện ở nhiều nơi sôi nổi, phong phú, nhiều sáng tạo, nhất là trong các dịp kỷ niệm và có một số kết quả tích cực. Nhưng đó chỉ mới là những hoạt động ngoại khoá. Còn chương trình giáo dục chính trị - đạo đức, sách giáo khoa, giáo viên, phương pháp dạy chính trị - đạo đức, tinh thần học sinh học chính trị thì đều rất kém. Chúng tôi hỏi nhiều giáo viên và được biết là bản thân các thầy, cô cũng không thích học chính trị. Công tác giáo dục chính trị và đạo đức cho thanh, thiếu niên cần có sự tham gia tích cực hơn nữa của gia đình và toàn xã hội.

Do không có đủ đội ngũ giáo viên giảng chính trị chuyên, thông thường là hiệu trưởng hoặc thầy chủ nhiệm (có khi là giáo viên khoa học tự nhiên) phải giảng. Ở Hà Nội, Sở Giáo dục báo cáo về kiểm tra giáo viên chính trị, đi tới nhận xét là 75% không nên dạy chính trị nữa.

Việc này dẫn đến tình trạng phổ biến là học sinh không thích học, không coi trọng môn chính trị, đạo đức.

Chúng ta yêu cầu con người mới xã hội chủ nghĩa phải có cái gốc cơ bản là ý thức tư tưởng xã hội chủ nghĩa, thế mà việc giáo dục những vấn đề cơ bản sơ đẳng về triết học, đạo đức và thẩm mỹ bị coi quá nhẹ. Nói đến học văn hóa, hầu như ai nấy chỉ biết có văn, toán, hoá, lý, v.v. còn lý luận chính trị, giáo dục đạo đức là môn dạy con người cách sống thì coi như là một môn rất phụ. Nhiều người cho rằng: Nhà trường mới chú trọng dạy chữ, chưa chú trọng dạy người.

Tiếp theo là môn dạy văn, có một điểm trong báo cáo của Thành phố Hồ Chí Minh nói rằng, trong một kỳ thi vào lớp 10 năm học 1984 - 1985 của trường phổ thông trung học Nguyễn Hữu Cầu, huyện Hóc Môn, về môn văn chỉ có 5% đạt yêu cầu còn 95% dưới yêu cầu. Có giảng viên dạy văn chưa được đọc tác phẩm văn học mà mình phải dạy cho học sinh. Dạy và thi văn đều không nhằm bồi dưỡng và kiểm tra xem trình độ nắm vững phép tắc văn chương và trình độ cảm thụ cái hay, cái đẹp của văn chương, của ngôn từ, mà chỉ nhằm dạy và kiểm tra sự nhận thức đạo lý trong văn chương.

Ngoài ra, công tác giáo dục thẩm mỹ vẫn nằm trong tình trạng bị thả lỏng, không có sự chỉ đạo cụ thể. Ở nhiều trường, chương trình chưa có, giáo viên hoạ, nhạc hầu như chưa có; phương pháp, kể cả phương pháp khắc phục tạm thời cũng không có. Thành phố Hồ Chí Minh có thể xây dựng một trường cao đẳng sư phạm kỹ thuật, nhưng trong trường cao đẳng sư phạm đào tạo giáo viên cấp II lại chưa có được khoa đào tạo giáo viên nhạc, hoạ. Ủy ban chúng tôi rất không hài lòng về tình trạng này. Chúng ta vẫn cứ để lớp lớp con em chúng ta vào đời không được giáo dục thẩm mỹ và do đó chúng dễ bị nhiễm các thứ "thẩm mỹ" sai trái, thấp kém, rẻ tiền, rồi chúng ta lại phàn nàn trước tình trạng đó và muốn sửa chữa tình trạng đó. Đề nghị Bộ Giáo dục xem lại các công tác chuẩn bị cho cải cách giáo dục, đặc biệt là về đào tạo sư phạm, về sách giáo khoa và cơ sở vật chất để bảo đảm chất lượng, tính tích cực và tính vững chắc của cải cách giáo dục.

5. Đội ngũ giáo viên là một yếu tố có liên quan đến tất cả mọi việc nói trên, có liên quan đến toàn bộ sự nghiệp giáo dục. Có nhiều điều cần nói, ở đây chúng tôi xin chỉ đề cập ba điểm:

a) Vấn đề mà chúng tôi lần nào cũng đã báo cáo là tình hình đời sống giáo viên và vai trò xã hội của thầy, cô giáo. Chúng tôi ghi nhận rằng Hội đồng Bộ trưởng đã có nhiều cố gắng, nhiều chủ trương cụ thể (như việc chuyển thang lương giáo viên, tổ chức ngày nhà giáo Việt Nam, định danh hiệu Nhà giáo nhân dân và Nhà giáo ưu tú). Nhưng việc triển khai thực hiện những chủ trương, chính sách đã ban hành còn quá chậm. Cho đến nay, vẫn còn nhiều tỉnh chưa chuyển thang lương cho giáo viên theo tinh thần Nghị quyết 73 của Hội đồng Bộ trưởng. Việc chậm cải tiến tiền lương cho giáo viên và cán bộ có trình độ đại học dẫn đến tình trạng bất hợp lý là giáo viên mới ra trường có lương cao hơn thầy (đang dạy đại học). Vì vậy, chúng tôi vẫn muốn nêu một ý kiến là cần phải có một chính sách toàn diện trên cơ sở một quan điểm cơ bản coi thầy, cô giáo là những người có trách nhiệm lớn trong việc đào tạo và bồi dưỡng con người mới xã hội chủ nghĩa. Chúng tôi đề nghị phải có một công trình nghiên cứu cơ bản để đi đến có một chính sách toàn diện, cơ bản với tinh thần là chăm lo các nhà giáo dục, tương đương với chăm sóc các sĩ quan ở trong quân đội về mọi mặt quyền lợi vật chất.

Đây là tiếng nói khẩn thiết của chúng tôi, phản ánh nguyện vọng của các thầy, cô giáo và phản ánh một thực tiễn theo quan điểm coi trọng việc đào tạo con người mới của Đảng.

b) Vấn đề đào tạo sư phạm đang là một thiếu sót lớn trên các mặt:

Cải cách giáo dục đã thực hiện được 4 năm, song chương trình và phương pháp giảng dạy, mục tiêu đào tạo của các trường đại học, cao đẳng và trung học sư phạm vẫn như cũ, chưa có cải cách sư phạm để làm tiền đề và điều kiện cho cải cách giáo dục. Hướng đẩy mạnh giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề cũng chưa được phản ánh trong việc giảng dạy ở các trường sư phạm. Mỗi lần thay sách cải cách lên một lớp, lại phải có bồi dưỡng cấp tốc cho giáo viên. Khi bắt đầu thay sách lớp 1, các trường chọn giáo viên khá để bồi dưỡng; đến lớp 2, số giáo viên khá để chọn đã giảm đi, đến lớp 3 và lớp 4 thì chọn vào đâu? Sắp sửa thay sách đến các lớp của cấp II rồi, thế mà các trường cao đẳng sư phạm chưa có chuẩn bị gì cho việc này.

Việc phải hạ thấp điểm chuẩn tuyển sinh vào các trường sư phạm đã dẫn đến chất lượng học của giáo sinh thấp, và tất nhiên kéo theo chất lượng của giáo viên ra trường. Điều này có liên quan đến chính sách (như chúng tôi báo cáo ở điểm (a) bên trên và tâm lý xã hội còn coi thường nghề dạy học, vốn là một nghề cao quý).

c) Cũng trong vấn đề đội ngũ giáo viên, chúng tôi khẩn thiết đề nghị phải có kế hoạch đào tạo ngay một đội ngũ giáo viên chính trị, đạo đức. Cần có các khoa chuyên trong các trường sư phạm, kèm theo việc nghiên cứu lại chương trình và phương pháp giảng dạy. Cần phải có các nhà tâm lý học chuyên sâu nghiên cứu yêu cầu của các lứa tuổi đối với các vấn đề của cuộc sống để soạn chương trình cho thích hợp. Không nên yên chí với chương trình hiện nay. Cần phải có các phương pháp giảng dạy có hiệu quả hơn, phát huy những ưu điểm trong các sinh hoạt ngoại khoá hiện nay song song với phương pháp giảng dạy chính khoá. Ủy ban chúng tôi dự kiến sẽ đi sâu chuyên đề này để có những kiến nghị cần thiết trong năm tới.

II- VỀ VĂN HÓA

Qua tình hình hoạt động văn hóa ngày càng được mở rộng, qua những nghị quyết của Đảng và hoạt động của Nhà nước, chúng tôi thấy có vấn đề đáng quan tâm, đó là quản lý văn hóa. Quản lý văn hóa nằm trong phạm trù quản lý xã hội và có quan hệ mật thiết với quản lý kinh tế. Trước hết, chúng tôi thấy không thể chỉ quan tâm và nghiên cứu các vấn đề quản lý kinh tế, mà phải xem xét cả về vấn đề quản lý văn hóa.

Vì bước đầu mới tìm hiểu, nghiên cứu, chưa thể có những kiến nghị cụ thể và sâu sắc, chúng tôi chỉ xin báo cáo mấy nhận xét, như sau:

Trước hết, khi nói quản lý văn hóa, cần có sự xác định đối tượng của quản lý. Theo những tài liệu lý luận của các nước thì đối tượng quản lý văn hóa có thể có 4 - 5 khâu:

- Khâu sáng tạo (sáng tác).

- Khâu bảo quản (gồm bảo tàng, bảo tồn các di sản, bảo vệ quyền tác giả).

- Khâu sản xuất, phân phối (xuất bản, biểu diễn, phát hành).

- Khâu đào tạo, chủ yếu đào tạo nghệ sĩ.

- Khâu công chúng (bao gồm nhu cầu, thị hiếu, khả năng hưởng thụ, thái độ cảm thụ và khả năng sáng tạo).

Trong thực tế thì hoạt động văn hóa có nhiều loại hình, nhiều dạng hoạt động khác nhau cho nên đối tượng quản lý cũng tuỳ theo các dạng hoạt động đó.

Những điều nói trên chứng tỏ quản lý văn hóa là một vấn đề mới, một khoa học, một vấn đề xã hội, gắn chặt với quản lý kinh tế - xã hội. Trong Nghị quyết Đại hội V có đoạn viết "... cuộc đấu tranh trên mặt trận văn hóa có nơi bị buông lỏng..." và "các cấp uỷ Đảng và chính quyền các cơ quan làm công tác tư tưởng và văn hóa phải thấy hết trách nhiệm của mình và tăng cường quản lý đời sống văn hóa".

Như vậy, có vấn đề quản lý văn hoá và đó là trách nhiệm của cả cấp uỷ và chính quyền trong cuộc cách mạng tư tưởng và văn hóa.

Chúng tôi xin ghi nhận trong những năm qua Hội đồng Bộ trưởng đã có Nghị quyết 159 (12-1983) về công tác văn hóa và thông tin và có giải quyết một số vấn đề có ý nghĩa chính sách theo tinh thần tích cực. Ở nhiều huyện có nghị quyết của huyện uỷ, Ủy ban huyện; ở một vài tỉnh, thành đã có những văn bản nghị quyết cụ thể về công tác này.

1. Một vấn đề bao trùm và then chốt của nhiều vấn đề quản lý văn hoá là vấn đề có một chế độ tài chính thích hợp cho hoạt động văn hóa.

Trong Nghị quyết số 159, Hội đồng Bộ trưởng đã có những quyết định về mặt này như:

- "Cho phép Bộ Văn hóa được sử dụng 90% lãi xuất khẩu để phát triển sự nghiệp.

- Định mức nộp lãi cho Nhà nước của các cơ sở sản xuất, kinh doanh.

Số lãi vượt được giữ lại để phát triển sự nghiệp.

- Đối với các đơn vị nghệ thuật, không đòi hỏi thăng bằng chi thu - cần xây dựng chế độ thu nộp ngân sách thích hợp nhằm đề cao chức năng giáo dục, v.v..

- Cần mở rộng quỹ văn hóa. Quỹ văn hóa được phép giữ số dư cuối năm để tích luỹ cho những tác phẩm lớn...".

Đó là những quyết định rất đúng đắn. Những quyết định này được thực hiện tốt sẽ giải quyết được một vướng mắc cơ bản cho hoạt động của ngành Văn hóa. Bộ Văn hóa hiện phải quản lý những đơn vị sự nghiệp rất lớn và phức tạp, tốn kém: 12 đơn vị nghệ thuật lớn, 21 trường đại học và trung học chuyên nghiệp về văn hóa - nghệ thuật, các viện nghiên cứu văn hóa - nghệ thuật, các đơn vị thư viện và bảo tàng quốc gia, tổng cộng gần 50 đơn vị lớn, bên cạnh các cơ quan hành chính. Các cơ sở sản xuất, kinh doanh của Bộ Văn hóa như công nghiệp in, sản xuất vật phẩm văn hóa, điện ảnh đều có nhiều tiềm năng phát triển và sự phát triển của các cơ sở này có thể tạo điều kiện tài chính để phát triển các sự nghiệp khác. Nếu Bộ Văn hóa được chủ động về tài chính, được quyền điều hoà trong nội bộ ngành giữa khu vực sản xuất, kinh doanh và phát triển sự nghiệp thì có thể giải quyết được tình hình là: các sự nghiệp đều đòi hỏi sự đầu tư lớn, cấp thiết, nhưng ngân sách nhà nước có hạn.

Hàng chục năm nay, số tiền của Bộ Văn hóa nộp lại cho Nhà nước trung bình sấp sỉ 90 - 100% số tiền ngân sách nhà nước cấp cho Bộ Văn hóa để hoạt động sự nghiệp - thực ra số tiền nộp này so với các ngành kinh tế thì chỉ là một số nộp nhỏ bé, nhưng, nếu Bộ Văn hóa được chủ động sử dụng thì nó lại có ý nghĩa rất lớn đối với việc phát triển sự nghiệp văn hóa.

Chúng tôi hết sức hoan nghênh những quyết định trong Nghị quyết 159 của Hội đồng Bộ trưởng, nhưng chúng tôi tỏ ý mong đợi những quyết định này sớm được thể chế hoá, được sự đồng tình của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, của Bộ Tài chính để nó sớm được thực hiện. Vấn đề này thực ra đã được đặt ra từ năm 1980, đến 1983 mới được thành nghị quyết chính thức của Hội đồng Bộ trưởng, nhưng nó lại vẫn còn vướng do hơn một năm trời rồi chưa được thi hành. Chúng tôi cho đây là một vấn đề then chốt để gỡ nhiều vướng mắc khác trong quản lý văn hóa và trong việc phát triển sự nghiệp văn hóa. Sự chậm trễ này tức là sự chậm chạp đổi mới quản lý, chậm chạp chấp hành Nghị quyết Trung ương lần thứ 6.

2. Tình trạng quản lý văn hóa của ta còn nhiều sơ hở và mâu thuẫn.

a) Đối với một số loại hình nghệ thuật, các tác phẩm và tác giả, chưa có một chính sách hay quy chế cụ thể để bảo đảm. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều cần có sự phê bình của các nhà lý luận phê bình và sự phê bình của công chúng. Tác phẩm trải qua sự đánh giá vô tư của công chúng mới trở thành một giá trị thẩm mỹ được công nhận. Có những tác phẩm cần cấm và bất cứ tác phẩm nào cũng cần có sự phê bình. Không nên coi tác phẩm nào bị phê bình, có khuyết điểm tức là tác phẩm ấy bị cấm, sự phê bình càng náo nhiệt, càng bổ ích cho tác giả và cho công chúng. Công chúng được tham gia ý kiến đối với tác phẩm và cả đối với những ý kiến phê bình; đó là nâng cao quyền làm chủ tập thể của nhân dân đối với văn hóa. Ở ta, có tình trạng một tác phẩm nào có ý kiến phê bình của một vài cơ quan có thẩm quyền thì tác phẩm đó coi như bị cấm. Công chúng không hiểu cấm vì lẽ gì lại càng tìm xem và tìm đọc. Và sự phê bình lại thường chỉ có một tiếng nói, thiếu sự tranh luận.

Nghị quyết 159 của Hội đồng Bộ trưởng đã quy định quyền hạn của Bộ Văn hóa đối với các tác phẩm được phổ biến và công diễn và quyền hạn của chính quyền địa phương vì lẽ nào đó có thể tạm hoãn việc phổ biến, nhưng phải báo cho Bộ Văn hóa. Song, có những địa phương công bố dứt khoát: "chúng tôi cấm tác phẩm này, cấm tác phẩm kia".

Như vậy, ai cũng có quyền cấm. (?).

Chúng tôi thấy nếu cứ phê bình là cấm thì coi như không có sự phê bình. Một nền văn nghệ không có sự phê bình là một nền văn nghệ nghèo nàn, không được nâng cao và công chúng bị thiệt thòi.

b) Về vấn đề chiếu phim và video cassette, hiện nay, phải thừa nhận rằng nhu cầu xem phim của nhân dân quá lớn và cấp bách, nên việc chiếu phim cứ phát triển ngoài quy hoạch, khó kìm hãm nổi. Ngoài hệ thống rạp chiếu bóng của cơ quan điện ảnh (1.300 đơn vị) thì còn khoảng 1.000 đơn vị thuộc các ngành công đoàn, quân đội, công an, các đoàn thể, trường học, các cơ quan, xí nghiệp, thậm chí có cả những gia đình cán bộ nhà nước có video cassette. Các đơn vị chiếu bóng và video cassette bên ngoài hệ thống điện ảnh đua nhau thuê phim và mượn phim và cũng bán vé lấy tiền để cải thiện đời sống cho anh em trong cơ quan. Càng thuê và mượn được phim lạ, phim hợp "thị hiếu" một số công chúng, càng được tiếng và càng ăn khách. Cho nên, anh em cơ quan phát hành phim không kiểm soát và quản lý nổi.

c) Sự phát triển các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp cũng có xu hướng ra ngoài quy hoạch, chưa trên cơ sở tính toán nhu cầu hợp lý và các điều kiện bảo đảm. Việc này Bộ Văn hóa và các Sở Văn hóa đang uốn nắn lại.

3. Ngành điện ảnh đang giữ một vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của nhân dân ta, từ thành thị tới nông thôn, từ miền núi đến hải đảo, song điện ảnh đang gặp những mâu thuẫn cần giải quyết:

- Điện ảnh là một ngành nghệ thuật, đồng thời là một ngành công nghiệp và kinh doanh.

- Mạng lưới hoạt động cần khép kín từ Trung ương đến từng đơn vị chiếu phim và toàn bộ cái vòng này mới tạo ra lãi lớn. Song, khâu sản xuất phim chỉ thu về và nộp lãi cho Nhà nước một tỷ lệ nhỏ, còn khâu phát hành thu lãi lớn lại đưa vào ngân sách địa phương.

Nếu ngành Điện ảnh được quản lý toàn bộ số doanh thu (trong đó có cả lãi) với một số khoản nhất định nộp cho Nhà nước thì ngành có khả năng tự đầu tư phát triển tốt. Hiện nay, 2/3 số lãi là phân tán ra ở các ngân sách tỉnh và huyện. Trong khi đó, cơ sở vật chất và thiết bị công nghiệp của ngành Điện ảnh đang ở tình trạng báo động, cấp cứu mà chưa có dấu hiệu của một nguồn đầu tư nào. Trình độ nghệ thuật của điện ảnh Việt Nam không thua kém gì các nước. Khả năng xuất, nhập thu ngoại tệ tuy đang có, nhưng còn bị nhiều cơ chế cụ thể ràng buộc không phát triển được. Quy định sử dụng ngoại tệ như trong Nghị quyết 159 của Hội đồng Bộ trưởng cho cả ngành Văn hóa, chưa có văn bản cụ thể của Bộ Tài chính và Ngân hàng Ngoại thương hướng dẫn thi hành.

Ngành Điện ảnh đang có nguyện vọng khẩn thiết: thay đổi cơ chế tổ chức và quản lý cho thích hợp, tạo điều kiện cho ngành phục vụ đời sống văn hóa cao hơn nữa, và tự thân phát triển, nhanh chóng trở thành một nguồn thu nhập quốc dân.

Ngành đã có báo cáo và kiến nghị cụ thể, nhiều cơ quan có trách nhiệm đã biết và ủng hộ. Chúng tôi, Ủy ban văn hóa giáo dục, cũng ủng hộ nguyện vọng đó.

4. Trong cả lĩnh vực giáo dục và lĩnh vực văn hóa đều có một vấn đề cần quan tâm lớn đó là thực hiện chính sách dân tộc đối với các dân tộc thiểu số trong văn hóa, giáo dục và vấn đề bảo đảm tính dân tộc trong nền văn hóa Việt Nam như thế nào? Ở tất cả các tỉnh miền núi mà chúng tôi đi vừa qua, việc tạo nguồn để đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số đã được đặc biệt quan tâm (tuy rằng còn gặp nhiều khó khăn). Nhưng còn một số vấn đề cần có phương hướng giải quyết cho cụ thể thêm:

a) Việc dạy song ngữ tại các trường, ở Đắc Lắc đã có chủ trương thử nghiệm việc dạy song ngữ (tiếng Việt phổ thông và tiếng Êđê) đã có tổ chức soạn sách giáo khoa dạy tiếng Êđê đến lớp 4, đang nghiên cứu soạn sách dạy tiếng Mơnông, ở Gia Lai - Kon Tum cũng đang thử nghiệm tiếng Giarai ở 4 huyện. Đây là một việc có ý nghĩa văn hóa rất lớn. Việc học tiếng dân tộc bảo đảm cho các dân tộc giữ được tiếng và chữ của mình, hoàn thiện tiếng và chữ, phát triển nó, còn việc học tiếng Việt phổ thông bảo đảm cho người dân tộc tiếp thu và nâng cao kiến thức để đi vào khoa học - kỹ thuật và văn hóa ngày càng cao hơn.

Các tỉnh ở Tây Bắc hiện không tổ chức việc dạy học tiếng dân tộc. Chúng tôi cho rằng, việc làm của hai tỉnh Tây Nguyên là đúng và hay. Bộ Giáo dục nên có chủ trương dứt khoát vấn đề này để chỉ đạo các tỉnh có người dân tộc thiểu số.

b) Các tỉnh miền núi có dân tộc thiểu số đều đứng trước hai tình hình về văn hóa: một mặt phải tích cực xóa bỏ, khắc phục những phong tục tập quán quá lạc hậu, có hại để thúc đẩy các mặt kinh tế - xã hội tiến kịp miền xuôi. Mặt khác, lại đang đứng trước nguy cơ mất dần đi những di sản quý báu tạo nên bản sắc văn hóa của từng dân tộc. Các đồng chí lãnh đạo ở địa phương đều lo lắng và lúng túng trước tình hình đó ở các trường học phổ thông, không có dạy hát dân ca địa phương, không dạy làm và sử dụng nhạc cụ dân tộc, các trường cũng không coi trọng dạy làm thủ công, đan lát các đồ dùng, dệt vải, thêu và may các trang phục địa phương, như vậy là cả một thế hệ thanh niên sẽ đứt về căn bản với các truyền thống văn hóa của dân tộc và địa phương mình. Những truyền thống này chỉ còn lại ở các người già. Các phong trào văn nghệ quần chúng tại trường đều theo hướng mua sắm nhạc cụ điện tử hiện đại và nhảy múa các điệu múa mới: sáng tác, hát những bài hát mới.

Trong khi đó, việc sưu tầm, tập hợp và phân tích, hệ thống hoá, bảo tồn bảo tàng các di sản văn hóa còn gặp rất nhiều khó khăn, chưa được một sự quan tâm có hệ thống. Việc khai thác vốn nghệ thuật cổ truyền theo tinh thần "kết tinh lại và nâng lên tầm cao mới" còn gặp một sự hạn chế rõ rệt ở trình độ tư tưởng và trình độ nghệ thuật của các nghệ sĩ sáng tác ở địa phương.

Trong khuôn khổ một báo cáo chung, chúng tôi chỉ nêu lên một vài nét khái quát, mong được Hội đồng Bộ trưởng nói chung, Bộ Văn hóa và Bộ Giáo dục nói riêng có sự lưu tâm thích đáng, sớm định một số chủ trương cụ thể cho các tổ chức văn hóa cơ sở và các trường thực hiện một số việc để khắc phục tình trạng trên.

Trên đây, chúng tôi chỉ mới chọn ra một số tình hình để khẳng định: có nhiều vấn đề phải giải quyết trong công tác quản lý văn hóa, chúng tôi chưa nói đến những vấn đề quản lý văn hóa của cấp tỉnh và cấp huyện và trong nội bộ ngành Văn hóa, v.v..

Theo nhận xét của chúng tôi, quản lý văn hóa ở Việt Nam đã có những vấn đề cần xem xét:

1. Trước hết, cần đặt công tác này vào chương trình nghị sự của Hội đồng Bộ trưởng và các cơ quan nhà nước khác một cách thường xuyên hơn. Trong mỗi một vấn đề quản lý kinh tế - xã hội đều cần xem xét mặt văn hóa, ví dụ như, về quy hoạch tổng thể cần quan niệm không phải chỉ có tổng thể kinh tế và vấn đề xây dựng huyện; trong vấn đề quyền chủ động ở cơ sở cũng cần xét đến quyền các cơ sở hoạt động văn hóa.

Hội đồng Bộ trưởng chưa có một đồng chí Phó Chủ tịch chuyên lo về mặt này, trong khi có một Phó Chủ tịch lo về khoa giáo và nhiều Phó Chủ tịch lo các mặt kinh tế.

2. Vấn đề kế hoạch và ngân sách:

- Trong kế hoạch nhà nước phải tính đến các công trình, các sự nghiệp văn hóa của cấp Nhà nước, không nên chỉ có một số chỉ tiêu giao cho ngành Văn hóa. Cần phải có dự kiến xa, ví dụ có những công trình cho 20 năm, 30 năm sau và những công trình đó cần có sự đầu tư cho quá trình chuẩn bị từ bây giờ, cần có phân trách nhiệm cho các ngành kinh tế. Ví dụ: từ bây giờ ta phải tính ngay đến những công trình, những tác phẩm, những sự nghiệp cần có cho năm 1990 - 2000 và cả 2005. Cần phải nêu ra những nhiệm vụ biểu hiện rõ yêu cầu xây dựng một nền văn hóa mới, không nên chỉ có những chỉ tiêu có tính chất phúc lợi.

- Quỹ văn hóa là một cơ chế tích cực, cần hoàn thiện và phát huy tác dụng cao hơn.

- Cần thực hiện nhanh chóng, dứt khoát những quy định về tài chính cho Bộ Văn hóa như Nghị quyết 159 của Hội đồng Bộ trưởng đã xác định. Bộ Văn hóa cần sớm có phần ngân sách của mình và chủ động hơn nữa trong việc đầu tư cho các hoạt động, cho sự nghiệp phát triển.

3. Về chính sách xuất bản và chính sách nghệ thuật:

- Cần tổng kết toàn bộ tình hình xuất bản để định lại chính sách xuất bản, đáp ứng nhu cầu văn học và nghiên cứu khoa học. Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa sản xuất giấy và nếu cần thì nhập thêm giấy để thực hiện việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, thẩm mỹ bằng các loại sách báo dồi dào. Tình trạng khan hiếm sách báo, đặc biệt là đối với những độc giả cần thiết như các nhà trí thức và thanh, thiếu niên tạo nên nạn đầu cơ nâng giá và tạo kẽ hở cho sự lưu hành các sách báo cần cấm.

- Chính sách nghệ thuật, ngoài những chính sách khuyến khích sáng tác đã có, cần tăng cường hơn nữa việc khuyến khích chất lượng. Cần phân định rõ giữa việc cấm và chính sách phê bình như chúng tôi đã trình bày ở trên.

4. Đẩy mạnh việc nghiên cứu các vấn đề quản lý văn hóa - văn nghệ, trong đó có các vấn đề kinh tế trong văn hóa, để xây dựng được một hệ thống lý thuyết về quản lý văn hóa - nhất là xác định rõ đối tượng quản lý, nội dung quản lý, phương pháp quản lý và tổ chức quản lý.

Văn hóa có những đặc thù riêng, phương pháp quản lý văn hóa phải phù hợp với các đặc thù đó. Đảng đã có Nghị quyết Đại hội và Nghị quyết Trung ương lần thứ 5, Bộ Văn hóa đã quan tâm tới vấn đề này. Chúng tôi rất hoan nghênh và hy vọng nó sớm có kết quả tích cực.

*
*       *

Thưa Quốc hội,

Thưa các vị đại biểu,

Chúng tôi đã trình bày những ý kiến về tình hình văn hóa và giáo dục trong những năm qua với những nhận xét và kiến nghị của Uỷ ban văn hoá giáo dục. Chúng tôi cũng luôn luôn mong rằng Nhà nước sẽ có những biện pháp tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ hơn để đáp ứng việc thực hiện các nghị quyết lớn của các Đại hội Đảng và các mục tiêu về văn hóa, giáo dục mà Hiến pháp đã quy định.

Xin cảm ơn các vị đại biểu.

 

Lưu tại Trung tâm Lưu trữ
quốc gia III, phông Quốc hội