Chương trình bố trí dân cư các vùng thường xảy ra thiên tai, dân cư trú trong khu rừng đặc dụng được triển khai theo Quyết định số 193/2006/QĐ-TTg ngày 24.8.2006 của Thủ tướng (nay là Quyết định số 1776/QĐ-TTg). Mục tiêu của chương trình là nhằm quy hoạch, bố trí, sắp xếp dân cư ở vùng thiên tai và vùng đặc biệt khó khăn về đời sống, vùng biên giới, hải đảo, ổn định dân di cư tự do, vùng xung yếu và rất xung yếu của rừng phòng hộ, khu bảo vệ nghiêm ngặt của rừng đặc dụng nhằm ổn định và nâng cao đời sống của người dân, hạn chế tới mức thấp nhất thiệt hại do thiên tai, di cư tự do, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, góp phần xóa đói giảm nghèo, bảo vệ môi trường và củng cố an ninh quốc phòng.
Theo Báo cáo tình hình thực hiện trong giai đoạn 2006 – 2013, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cơ quan thường trực chương trình đã phối hợp với các bộ, ngành có liên quan như Bộ Quốc phòng, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công thương... ban hành nhiều văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các địa phương tổ chức triển khai chương trình. Bên cạnh một số kết quả tích cực, vẫn còn những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện chương trình như: tiến độ thực hiện chương trình của một số địa phương còn chậm, chưa đáp ứng yêu cầu di dân thực tế. Một số dự án bố trí tái dân cư thực hiện kéo dài, chưa bảo đảm các điều kiện phục vụ sản xuất, đời sống của người dân nhất là đất ở, đất sản xuất…
Các thành viên Hội đồng Dân tộc cho rằng, báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cũng như của các bộ, ngành liên quan còn chung chung, chưa đi sâu phân tích những hạn chế, bất cập cũng như nguyên nhân của các tồn tại này trong việc tổ chức thực hiện chương trình. Một số đại biểu cho rằng, số liệu trong báo cáo của các bộ chưa trùng khớp nhau. Các bộ, ngành cần rà soát lại các số liệu, làm rõ sự vênh nhau giữa các số liệu được cung cấp trong báo cáo. Chủ tịch Hội đồng Dân tộc K’sor Phước đề nghị, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn hoàn chỉnh báo cáo thực hiện Chương trình bố trí dân cư các vùng thường xảy ra thiên tai, dân cư trú trong khu rừng đặc dụng giai đoạn 2006 - 2013, rút ra những ưu, khuyết điểm và phân tích các nguyên nhân hạn chế để từ đó đề ra phương hướng giải quyết bằng các chính sách cụ thể.