1. Về tính cấp thiết của việc sửa đổi Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng Nhân dân lần này cần nhấn mạnh yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Hiến pháp năm 2013, theo đó một trong những đòi hỏi khách quan là phải tăng cường mạnh mẽ các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước. Trong đó, giám sát của Quốc hội, các thiết chế của Quốc hội đóng vai trò đặc biệt quan trọng.
2. Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên cơ sở hệ thống chính trị một Đảng lãnh đạo, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp thì hoạt động giám sát của Quốc hội hiện nay vẫn còn không ít vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu làm rõ hơn về mặt lý luận, thực tiễn và luật thực định. Chẳng hạn như: phạm vi giám sát của Quốc hội, các thiết chế của Quốc hội (làm rõ nội hàm giám sát của Quốc hội là giám sát tối cao ở tầm vĩ mô và phân biệt với các phương diện kiểm soát quyền lực khác, như kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, kiểm sát, điều tra…), những đặc điểm trong cách thức, phương thức tiến hành giám sát và hậu quả pháp lý, mối quan hệ giữa giám sát của Quốc hội và giám sát của Hội đồng nhân dân; giữa giám sát với kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, kiểm sát, điều tra…
Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương dự và chỉ đạo Hội thảo Lấy ý kiến dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
3. Hạn chế trong hoạt động giám sát của Quốc hội hiện nay là hiệu lực, hiệu quả, chất lượng hoạt động giám sát của Quốc hội, các thiết chế của Quốc hội là chưa cao, chưa phúc đáp được yêu cầu thực hiện chủ trương tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013 cũng như đòi hỏi của thực tế. Điều này cần được quán triệt trong quan điểm chỉ đạo sửa đổi Luật lần này, để có những quan điểm, định hướng, giải pháp mạnh mẽ hơn nhằm khắc phục những hạn chế thời gian qua.
1. Về phương thức xem xét báo cáo của Quốc hội cần hoàn thiện trên các phương diện:
Thứ nhất, việc xem xét báo cáo phải được thảo luận, đánh giá trên hai giác độ: Giác độ thứ nhất là tính hệ thống, toàn diện, đầy đủ, chính xác, trung thực về những nội dung được nêu trong các báo cáo hay nói khác đi là chất lượng của báo cáo được trình Quốc hội đã phản ánh một cách khách quan, trung thực, chính xác kết quả thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật chưa.
Giác độ thứ hai, căn cứ vào những quy định của Hiến pháp và pháp luật về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ; vào nghị quyết của Quốc hội, nghị quyết về KT-XH và các nghị quyết khác có liên quan tới công tác này; vào kế hoạch phát triển KT-XH hằng năm và cả nhiệm kỳ; vào các định hướng chiến lược công tác thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật đã được nêu trong các văn kiện của Đảng, nghị quyết của Quốc hội,… để đánh giá kết quả tổ chức thực hiện, việc tuân thủ và chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết và các văn bản pháp luật có liên quan của Chính phủ. Trong đó, phân tích rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, thiếu sót, yếu kém, vi phạm pháp luật và những nguyên nhân chủ quan, khách quan.
Do đó, Luật Hoạt động giám sát phải quy định rõ các tiêu chí về vấn để này. Trên cơ sở đó, làm rõ được trách nhiệm của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ. Để cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, toàn diện, khách quan cho Quốc hội thì pháp luật cần quy định rõ, cụ thể về những nội dung cơ bản mang tính bắt buộc mà các báo cáo của Chính phủ phải nêu, đề cập, cung cấp số liệu, phân tích, đánh giá, nhận định và đưa ra giải pháp, những tiêu chí cụ thể về chất lượng mà các báo cáo phải đạt được.
Thứ hai, kinh nghiệm nhiều năm cho thấy, để chuẩn bị cho hoạt động thẩm tra các báo cáo của Chính phủ trình trước Quốc hội cần tổ chức các cuộc giám sát, khảo sát sâu, chuyên đề, lấy ý kiến, thu thập thông tin tại các địa phương, các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở trung ương và địa phương, nhất là ở cơ sở về tình hình thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật ở các bộ, ngành, địa phương, tổ chức các phiên giải trình, làm rõ trách nhiệm; tăng cường tiếp nhận, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo, khởi kiện của công dân, phản ánh của báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng… Đây là cơ sở thực tiễn hết sức quan trọng cho việc nâng cao chất lượng, hiệu quả của báo cáo thẩm tra, nhất là việc đưa ra các phân tích, phản biện, đánh giá toàn diện, chuyên sâu về từng nội dung của báo cáo, tạo cơ sở đáng tin cậy để các ĐBQH xem xét, đánh giá, xác định, làm rõ trách nhiệm, đồng thời hướng sự quan tâm, chú ý của các đại biểu vào những vấn đề trọng tâm, những vấn đề lớn ở tầm vĩ mô. ..
Phải đề cao trách nhiệm, bản lĩnh của các thành viên Hội đồng, Ủy ban trong việc phản biện, đồng thời thu hút các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà chuyên môn có kinh nghiệm, uy tín tham gia vào hoạt động thẩm tra để cung cấp các thông tin, đánh giá chuyên sâu những nội dung cần thiết được nêu trong các báo cáo.
Thứ ba, cần đổi mới mạnh mẽ công tác cung cấp và xử lý thông tin cho ĐBQH, nhất là các ĐBQH hoạt động không chuyên trách tại các bộ, ngành, địa phương. Việc gửi tài liệu phục vụ kỳ họp, phiên họp không chỉ diễn ra ngay trước kỳ họp mà cần phải được thực hiện thường xuyên trong thời gian giữa hai kỳ họp ; có cơ chế để các ĐBQH tiếp cận, sử dụng các chuyên gia, các nhà chuyên môn, nghiên cứu, tham mưu trợ giúp, phân tích, phản biện, đánh giá, xem xét các nội dung cần thiết được nêu trong các báo cáo để chuẩn bị phát biểu thảo luận, tranh luận ... Cần thay đổi cơ bản cách thức thảo luận, phải chuyển mạnh từ tham luận sang phản biện, tranh luận, làm cho việc xem xét, phân tích, đánh giá, phản biện các nội dung báo cáo trở nên thực chất, hiệu quả hơn. Cần có sự kết hợp chặt chẽ các phương thức giám sát, theo đó cần phải coi phương thức xét báo cáo là tiền đề, cơ sở quan trọng để triển khai hiệu quả các phương thức giám sát khác.
Thứ tư, cần ra nghị quyết riêng, độc lập đối với các lĩnh vực, các mặt quan trọng trong thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật. Luật Hoạt động giám sát cần quy định cụ thể về những nội dung cơ bản mà nghị quyết cần có. Trong nghị quyết cần nêu rõ những giải pháp cụ thể về việc thực hiện những lời hứa của Chính phủ trong khắc phục những hạn chế, yếu kém; xác định rõ thời gian, lộ trình và trách nhiệm trong việc thực hiện các giải pháp đó.
2. Về hoạt động giải trình.
Hoạt động giải trình cần hoàn thiện theo hướng:
Thứ nhất, để hoạt động giải trình không chỉ phụ thuộc vào nhận thức, ý thức chủ quan của cơ quan tiến hành mà còn xuất phát từ những yêu cầu, đòi hỏi khách quan đặt ra thì trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc và Hội đồng nhân dân cần nghiên cứu bổ sung quy định về những yếu tố, tiêu chí mà khi hội đủ thì Hội đồng dân tộc, các Ủy ban cần phải xem xét để tiến hành các phiên giải trình làm rõ trách nhiệm. Việc bổ sung này sẽ góp phần bảo đảm tính khách quan, thống nhất, tránh tùy tiện, chủ quan, duy ý chí hoặc thiếu trách nhiệm trong tổ chức thực hiện các phiên giải trình, đồng thời cũng bảo đảm tính công khai, minh bạch, có căn cứ trong việc tiến hành.
Ủy ban Văn hóa Giáo dục của Quốc hội phối hợp với Ủy ban Xã hội của Quốc hội tổ chức Phiên giải trình Trách nhiệm quản lý nhà nước về phòng, chống tác hại của thuốc lá điện tử, thuốc lá nung nóng.
Thứ hai, để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giải trình thì công tác chuẩn bị có ý nghĩa quyết định đến chất lượng của hoạt động này. Theo đó, cần tiếp cận, thu thập, yêu cầu cung cấp thông tin cần thiết cho việc tiến hành phiên giải trình. Thông tin có thể thu thập từ các báo cáo kết quả công tác của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương, các cuộc tiếp xúc cử tri, qua hoạt động khảo sát thực tiễn, giám sát chuyên đề, chất vấn, hội thảo khoa học, lấy ý kiến của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà hoạt động thực tiễn, qua việc tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân, qua phản ánh của báo chí… Trên cơ sở đó, tổ chức nghiên cứu, phân tích, phản biện, tổng hợp các cơ sở dữ liệu, luận chứng, chuẩn bị các nội dung, câu hỏi phản biện, đối thoại, tranh luận phục vụ cho phiên giải trình.
Thứ ba, bổ sung quy định giải trình có thể thực hiện theo kế hoạch hoặc đột xuất trên cơ sở yêu cầu khách quan, cấp thiết mà nhiệm vụ đặt ra. Mỗi cuộc giải trình phải xác định rõ về mục đích, yêu cầu, nội dung, phạm vi, tính chất và đối tượng giải trình, bảo đảm tính chủ động, tổ chức bài bản, công khai, minh bạch, khách quan...
Thứ tư, để bảo đảm tính thống nhất trong tổ chức hoạt động giải trình thì Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân cần bổ sung quy định về trình tự, thủ tục, phạm vi, những nội dung cơ bản, cách thức tiến hành, trách nhiệm của các bên và hậu quả pháp lý của hoạt động giải trình.
Thứ năm, để bảo đảm tính khách quan, công khai, minh bạch, đúng đắn trong hoạt động giải trình cần quy định rõ, cụ thể trách nhiệm của cơ quan chịu sự giám sát trong hoạt động giải trình của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội. Theo đó, các báo cáo, thông tin mà các cơ quan có trách nhiệm giải trình cung cấp phải kịp thời, chính xác, trung thực, đầy đủ, toàn diện theo yêu cầu của cơ quan tiến hành giải trình, phải chịu trách nhiệm về những thông tin, báo cáo đó; trong trường hợp liên quan đến những hạn chế, thiếu sót, yếu kém, vi phạm thì cần phân tích làm rõ trách nhiệm, mức độ trách nhiệm và các giải pháp để khắc phục.
Thứ sáu, việc lựa chọn chủ đề, vấn đề giải trình cần phải được chuẩn bị kỹ, sát với mục đích, yêu cầu đặt ra cho hoạt động giải trình. Thi hành, tổ chức thực hiện pháp luật của Chính phủ, các cơ quan của Chính phủ có phạm vi rất rộng lớn, trong khi thời gian dành cho hoạt động giải trình là không nhiều nên hoạt động giải trình cần xác định trọng tâm, trọng điểm những mặt công tác, những lĩnh vực thật sự bức xúc, cấp thiết phải làm rõ, đang đặt ra phải giải quyết, tránh ôm đồm, dàn trải và hình thức.
Thứ bẩy, giải trình phải được gắn chặt và phối hợp chặt chẽ với phương thức giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Vì đây là cơ sở quan trọng trong việc tiếp cận thông tin, phát hiện và xử lý thông tin phục vụ đắc lực cho hoạt động giải trình. Trong quá trình giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhiều vấn đề cần được giải trình làm rõ để góp phần xác định chính xác, minh bạch những vấn đề liên quan đến sự thật khách quan đang được giải quyết.
Việc lựa chọn chủ đề, vấn đề giải trình cần phải được chuẩn bị kỹ, sát với mục đích, yêu cầu đặt ra cho hoạt động giải trình. Trong ảnh: Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức phiên giải trình về tình hình thị trường xăng dầu và kết quả thực hiện các nhiệm vụ giải pháp trong công tác quản lý nhà nước về xăng dầu.
3. Về lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm
Thứ nhất, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm về bản chất là đánh giá năng lực, trách nhiệm, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, bao gồm những người đứng đầu các cơ quan, như: Thủ tướng Chính phủ, Phó Thủ tướng Chính phủ, Tổng TTCP, Bộ trưởng, Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Tổng KTNN. Do đó, để bảo đảm tính khách quan, minh bạch, chính xác trong đánh giá thì cần hoàn thiện pháp luật về phân công, phân cấp, phân quyền, phân trách nhiệm; cơ chế xác định trách nhiệm của người đứng đầu, trách nhiệm trực tiếp và trách nhiệm gián tiếp trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều hành, thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
Đổi mới căn bản cách thức cung cấp thông tin về những người thuộc diện lấy tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, bảo đảm để ĐBQH có điều kiện tiếp cận thông tin để nắm rõ phẩm chất, đạo đức , năng lực, trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ của những người đứng đầu…, bảo đảm khách quan, minh bạch, chính xác.
Thứ hai, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân cần bổ sung quy định cụ thể về cách thức tổ chức, trình tự, thủ tục, thời gian của việc hội đủ 20% trên tổng số các vị ĐBQH đề nghị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm và được đưa vào chương trình nghị sự.
Thứ ba, đối với HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội, bên cạnh việc quy định thẩm quyền đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người đứng đầu thì cần quy định đây còn là nghĩa vụ pháp lý, trong trường hợp thấy có đủ các điều kiện, yếu tố cần thiết do luật định thì có nghĩa vụ phải tiến hành đề nghị bỏ phiếu tín nhiệm với một chức danh nào đó trên cơ sở các điều kiện, yếu tố mà mình có được qua hoạt động giám sát của Hội đồng, Ủy ban.
Tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV đã tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với 44 người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Thứ tư, mục đích lấy phiếu tín nhiệm đối với những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn là để thăm dò, thu thập thông tin phục vụ cho công tác quy hoạch, sử dụng, đánh giá, phân công cán bộ, nên pháp luật quy định vẫn để ở 03 mức tín nhiệm, tín nhiệm thấp, tính nhiệm cao, nhưng cần bổ sung quy định ít nhất là 02 lần trong 01 nhiệm kỳ Quốc hội, lần đầu vào cuối năm thứ 2 của nhiệm kỳ Quốc hội, lần thứ 02 vào cuối năm thứ 4 của nhiệm kỳ. Tuy nhiên, việc bỏ phiếu tín nhiệm có mục đích là xem xét trách nhiệm, mức độ trách nhiệm trong việc xử lý cán bộ (về bản chất là bỏ phiếu bất tín nhiệm) thì chỉ quy định 02 mức là tín nhiệm và bất tín nhiệm, bảo đảm rõ ràng, minh bạch, chính xác trong đánh giá.
Thứ năm, trong thời gian gần đây Đảng (Bộ chính trị) đã có những chủ trương, quy định về miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ. Những quy định này cần sớm được thể chế hoá cụ thể trong Luật Hoạt động giám sát và được gắn kết chặt chẽ với phương thức lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm thì sẽ nâng cao được trách nhiệm chính trị, trách nhiệm pháp lý, đạo đức công vụ.
Thứ sáu, phương thức lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm là một hoạt động rất nhạy cảm trong quan hệ công tác, công vụ, liên quan đến đạo đức, trách nhiệm, tính liêm chính của ĐBQH. Do đó, để tránh những vấn đề tiêu cực có thể phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện Luật cần quy định chặt chẽ, minh bạch về quy tắc ứng xử, đạo đức nghị viện của các ĐBQH trong việc thực hiện phương thức giám sát này,…
4. Về chất vấn
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả chất vấn với tính chất là một phương diện giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp, cần hoàn thiện theo hướng sau đây:
Thứ nhất, cần bổ sung định một số nguyên tắc trong việc lựa chọn vấn đề và nhóm vấn đề chất vấn tại kỳ họp. Theo đó, các vấn đề được lựa chọn chất vấn phải có mối quan hệ trực tiếp với nhau, phải phù hợp với thời lượng, thời gian chất vấn nói chung và dành cho một chức danh, người đứng đầu cơ quan nói riêng; phải là những vấn đề bức xúc nhất hiện tại đang diễn ra hoặc đã tồn tại với thời gian kéo dài nhưng không được giải quyết hoặc giải quyết không triệt để, không hiệu quả , những vấn đề mà cử tri, nhân dân cả nước đặc biệt quan tâm; phải xác định được những vấn đề trọng tâm, trọng điểm liên quan trực tiếp đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, hiệu lực, hiệu quả, việc tuân thủ và chấp hành pháp luật trong hoạt động của cơ quan hữu quan, phải hệ thống hóa, phân loại các vấn đề theo thứ tự ưu tiên trong các chuyên đề đã giám sát…
Sau khi nghe báo cáo công tác của Chính phủ, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Tổng thư ký Quốc hội có trách nhiệm tổng hợp các chất vấn báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan chủ trì kỳ họp. Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự kiến và trình Quốc hội quyết định lựa chọn vấn đề và nhóm vấn đề chất vấn tại hội trường, những vấn đề được trả lời bằng văn bản, những chất vấn cần được chuẩn bị để trả lời tại kỳ họp khác của Quốc hội hoặc trả lời tại phiên họp chất vấn chuyên đề do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội tổ chức.
Thứ hai, năng lực chất vấn của ĐBQH phụ thuộc rất lớn vào các thông tin mà ĐBQH tiếp cận, được cung cấp hoặc thu thập được. Do đó, cần bổ sung quy định ĐBQH phải được cung cấp thông tin một cách đầy đủ, khách quan, toàn diện, chính xác và kịp thời về những vấn đề mà ĐBQH quan tâm chất vấn. Thông tin có thể thu thập từ báo chí, các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các tổ chức khác, từ tiếp xúc cử tri, qua việc tiếp nhận và xử lý đơn thư, khiếu nại tố cáo của công dân, qua kết quả khảo sát thực tiễn, giám sát chuyên đề, hoạt động giải trình tại Hội đồng dân tộc các Uỷ ban của Quốc hội, …Tuy nhiên, cần có những thông tin đã được xử lý thông qua chính hoạt động của ĐBQH, bằng sự tư vấn, trợ giúp từ các chuyên gia, các nhà nghiên cứu chuyên môn sâu phân tích, phản biện, bằng thảo luận, tranh luận tại kỳ họp...
Các vị ĐBQH chất vấn, tranh luận với Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà tại Phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV.
Thứ ba, chất vấn phải hướng vào các vấn đề bức xúc của đời sống KT-XH mà cử tri đang rất quan tâm, yêu cầu, đòi hỏi để làm rõ trách nhiệm, những hạn chế, thiếu sót, vi phạm của người bị chất vấn. Tránh tình trạng đặt câu hỏi chất vấn không rõ, không liên quan đến việc làm rõ trách nhiệm của người bị chất vấn.
Thứ tư, đối với những vấn đề bức xúc mà cử tri, nhân dân nêu ra, ĐBQH, kiểm định, xác minh, nghiên cứu trước, yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan cung cấp thông tin hoặc tự mình thu thập, xử lý thông tin về những vấn đề có liên quan đến chất vấn; trong trường hợp cần thiết phải sử dụng các chuyên gia thuộc các lĩnh vực chuyên sâu, chuyên ngành để giúp tham mưu, tư vấn. Chất lượng và hiệu quả của hoạt động chất vấn phụ thuộc vào chất lượng của việc đặt câu hỏi chất vấn phải đúng bản chất sự việc, có cơ sở, căn cứ và luận chứng thì mới đi đến cùng của sự thật khách quan trong việc xác định trách nhiệm,... Do đó, cần bổ sung quy định về việc sử dụng chuyên gia của ĐBQH.
Thứ năm, tổng hợp các lời hứa của người bị chất vấn trước Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, trước cử tri hoặc trước các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để đặt câu hỏi chất vấn làm rõ trách nhiệm trong việc thực hiện các lời hứa đó; các kiến nghị khi chất vấn cũng cần đặt trong phạm vi vấn đề đang chất vấn và trong phạm vi trách nhiệm của người bị chất vấn; các kiến nghị phải rõ ràng, cụ thể, mang tính khả thi và xây dựng.
Thứ sáu, cần quy định cụ thể để không bố trí chất vấn và trả lời chất vấn vào cuối kỳ họp Quốc Hội, vì dễ có tâm lý buông xuôi, cho qua. Nên bố trí vào khoảng thời gian giữa kỳ họp đến khoảng hai phần ba kỳ họp. Căn cứ vào nội dung chất vấn và trả lời chất vấn, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định những vấn đề cần báo cáo, giải trình hoặc những biện pháp mà người trả lời chất vấn phải khắc phục và báo cáo trước Quốc hội. Tùy vào vấn đề và mức độ trách nhiệm mà xác định thời hạn báo cáo để đánh giá hoặc có thể tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm nhưng cần báo cáo về biện pháp khắc phục phải làm tại kỳ họp tiếp theo của Quốc hội ..
Thứ bẩy, việc ra nghị quyết của Quốc hội về chất vấn và trả lời chất vấn, trách nhiệm của người bị chất vấn phải được xem như một hoạt động bình thường thể hiện tính công khai, minh bạch, nghiêm minh trong hoạt động giám sát của Quốc hội. Trong nội dung nghị quyết phải xác định rõ địa chỉ cụ thể và mức độ trách nhiệm của từng người trả lời chất vấn, tránh quy định trách nhiệm chung chung của bộ, của ngành, lĩnh vực; xác định rõ và xử lý trách nhiệm trong việc thực hiện những lời hứa của người bị chất vấn tại kỳ họp trước.
5. Về giám sát chuyên đề
Thứ nhất, quy định rõ hơn về tính chất của giám sát chuyên đề. Theo đó, phương thức để giám sát chuyên đề quan trọng nhất là tổ chức các đoàn giám sát để tiến hành giám sát trực tiếp ở trung ương và địa phương. Tính chất của giám sát chuyên đề phải được quy định rõ ở các mặt sau đây:
Đoàn giám sát tuy là một tổ chức được thành lập theo quy định của pháp luật, có nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể xong không phải là chủ thể giám sát độc lập mà phụ thuộc vào nghị quyết thành lập, sự chỉ đạo, điều hành và kết luận của cơ quan tổ chức ra đoàn công tác đó.
Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội về “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý thị trường bất động sản và phát triển nhà ở xã hội từ năm 2015 đến năm 2023” do Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh, Phó Trưởng đoàn Thường trực Đoàn giám sát làm Trưởng đoàn đã khảo sát thực tế tại một số dự án trên địa bàn Thành phố Hà Nội.
Tất cả các hoạt động của đoàn giám sát phải bảo đảm các nguyên tắc làm việc của Quốc hội và đặc biệt là không được làm thay hoặc can thiệp vào việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, người có thẩm quyền. Đồng thời, không làm cản trở hoạt động bình thường của các cơ quan, người có thẩm quyền chịu sự giám sát.
Mục đích hoạt động của đoàn giám sát là làm rõ trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có chức vụ, quyền hạn. Chính vì vậy hoạt động này khác về bản chất so với các đoàn khảo sát để thu thập thông tin, tình hình phục vụ cho hoạt động của Quốc hội, các thiết chế của Quốc hội, nên hoạt động của đoàn giám sát bao giờ cũng phát sinh hậu quả và trách nhiệm pháp lý của cả bên tiến hành giám sát và bên chịu sự giám sát.
Hậu quả pháp lý về hoạt động của đoàn giám sát được xem xét, thảo luận, quyết định bởi các cơ quan đã ra quyết định thành lập đoàn giám sát bao gồm Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội.
Thứ hai, hoạt động giám sát chuyên đề phải được thực hiện theo chương trình, kế hoạch đã được xác lập, trong trường hợp cấp thiết cần phải tiến hành đột xuất thì phải bảo đảm nguyên tắc làm việc tập thể và quyết định theo đa số trong hoạt động của chủ thể tiến hành giám sát, phải được tổ chức bài bản theo một quy trình thống nhất có mục đích, yêu cầu, nội dung, đối tượng, phạm vi, thời gian, tiến độ, cách thức tổ chức phù hợp, cụ thể, minh bạch. Mỗi hoạt động giám sát, mỗi khâu trong quy trình giám sát chuyên đề đều phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, thận trọng, toàn diện về mọi mặt. Đồng thời giám sát chuyên đề là giám sát ở tầm vĩ mô phải có tác động trở lại sâu sắc, tích cực đối với việc thực hiện chức năng lập pháp, hoạch định chính sách, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Thứ ba, lựa chọn chuyên đề giám sát cần kết hợp giữa tính kế hoạch và tính thời sự
Giám sát chuyên đề có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả thì cần phải lựa chọn chuyên đề giám sát phù hợp. Theo đó, cần quy định tiêu chí để lựa chọn chủ đề giám sát chuyên đề, bảo đảm tính có căn cứ, tính khoa học, tính thực tiễn và tính cấp thiết của các chuyên đề được lựa chọn giám sát trong từng năm, từng thời kỳ, thời điểm nhất định. Tiêu chí đó cần bảo đảm các nội dung sau đây:
Vấn đề được lựa chọn phải là vấn đề lớn, quan trọng liên quan trực tiếp đến hiệu lực, hiệu quả, việc tuân thủ và chấp hành pháp luật, kiểm soát quyền lực đối với hoạt động của các cơ quan này.
Chuyên đề được lựa chọn phải phản ánh được tâm tư, nguyện vọng, yêu cầu và đòi hỏi chính đáng của đông đảo cử tri và nhân dân, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp.
Những vấn đề mới phát sinh được các cơ quan khác có thẩm quyền đề xuất việc sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật theo quy trình rút gọn đặt ra yêu cầu cần tiến hành giám sát chuyên đề để thu thập thông tin, cơ sở thực tiễn cần thiết hỗ trợ cho hoạt động lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước…
Mỗi hoạt động giám sát, mỗi khâu trong quy trình giám sát chuyên đề đều phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, thận trọng, toàn diện về mọi mặt. Trong ảnh: Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh, Phó Trưởng đoàn Thường trực Đoàn giám sát cùng Đoàn đã khảo sát dự án Khu đô thị mới Đại Kim, quận Hoàng Mai, Hà Nội.
Thứ tư, cần bổ sung quy định về cơ chế phối hợp tham gia của các cơ quan có chức năng kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và Hội đồng nhân dân các cấp, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và báo chí.
Thứ năm, hoạt động giám sát chuyên đề cần có sự gắn kết chặt chẽ với giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, khởi kiện để vừa có cơ sở lựa chọn chủ đề giám sát, vừa có thể tiến hành giám sát một số vụ việc, vụ án cụ thể, làm cơ sở, minh chứng cho những nhận định, đánh giá, xác định trách nhiệm trong báo cáo, nhất là trong các kết luận, kiến nghị, nghị quyết về giám sát chuyên đề, bảo đảm tính có căn cứ, thuyết phục của các đánh giá. Tuy nhiên, cần bổ sung quy định rõ, cụ thể hơn về phạm vi, trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành và hậu quả pháp lý của việc giám sát đối với các vụ việc, vụ án cụ thể phù hợp với tính chất về tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các thiết chế của Quốc hội. Giám sát của Quốc hội là giám sát ở tầm vĩ mô, nên việc giám sát đối với các vụ việc, vụ án cụ thể cũng phải hướng vào việc giải quyết những vấn đề mang tính phổ biến, vĩ mô, vào việc hoàn thiện thể chế, pháp luật và nhất là làm rõ trách nhiệm của những người đứng đầu, những người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
6. Giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị.
Thứ nhất, phải bổ sung nguyên tắc giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị là Quốc hội, các thiết chế của Quốc hội không làm thay các cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền; không chỉ đạo, can thiệp hoặc tác động vào quá trình giải quyết của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền mà chỉ nêu ra các căn cứ pháp luật để xác định, chỉ ra tính đúng, sai trong việc tuân thủ, chấp hành và áp dụng pháp luật, giải quyết của họ, qua đó làm rõ được trách nhiệm, hiệu quả công tác, góp phần bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Thứ hai, bổ sung quy định các tiêu chí cụ thể về phân loại đơn thư, tránh việc xử lý trùng lặp , chồng chéo, dàn trải, chuyển đơn lòng vòng, cần tập trung vào các vụ việc mà qua nghiên cứu nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị và các tài liệu kèm theo phát hiện có dấu hiệu sai sót, vi phạm pháp luật hoặc oan sai…
Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương và Đoàn công tác khảo sát, kiểm tra việc quản lý hồ sơ, công tác tiếp dân tại địa điểm tiếp công dân của Quốc hội tại Trụ sở tiếp công dân Trung ương.
Thứ ba, phân định rõ hơn, cụ thể hơn phạm vi thẩm quyền, trách nhiệm giám sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị giữa các Uỷ ban của Quốc hội với Ban Dân nguyện và với Uỷ ban thường vụ Quốc hội về công tác này.
Thứ tư, bổ sung quy định trách nhiệm của chủ thể giám sát phải đi đến cùng vấn đề xác định và xử lý trách nhiệm của đối tượng chịu sự giám sát, nhất là trách nhiệm trong việc khắc phục những hạn chế, thiếu sót, yếu kém, vi phạm pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân. Các kiến nghị, yêu cầu qua hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị gửi đến các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải cơ chế, cách thức để theo đuổi đến cùng. Theo đó, cần quy định rõ, cụ thể trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có chức vụ, quyền hạn trong nghĩa vụ thực hiện các kiến nghị, yêu cầu giám sát, trong trường hợp không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ yêu cầu, kiến nghị giám sát thì phải quy định chế tài để xử lý trách nhiệm; …
Thứ năm, bồi dưỡng kỹ năng trong giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, trong đó bao gồm những kỹ năng thu thập, phân tích, tổng hợp thông tin, kỹ năng phản biện, xác minh, đối thoại, kỹ năng làm việc với các cơ quan có thẩm quyền.
Thứ sáu, bổ sung quy định về cơ chế hậu giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị , trong đó bao gồm việc xác định trách nhiệm của đối tượng chịu sự giám sát trong thực hiện các kiến nghị, yêu cầu và trả lời kết quả giải quyết cũng như gửi kết quả thực hiện kiến nghị, yêu cầu đến chủ thể đã tiến hành giám sát; trách nhiệm của chủ thể tiến hành giám sát trong việc bám sát, theo dõi, đôn đốc thực hiện; cách thức xử lý trách nhiệm trong trường hợp đối tượng chịu sự giám sát không thực hiện hoặc thực hiện không đúng tinh thần và nội dung của các kiến nghị, yêu cầu giám sát; trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành trong đi đến cùng việc xử lý trách nhiệm của người giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị./.
|
TS.Nguyễn Đình Quyền
Nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc Hội
Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu lập pháp
Đại biểu Quốc hội khoá XII, XIII
|