QUY ĐỊNH VỀ CHẤM DỨT TƯ CÁCH THÀNH VIÊN HỢP DANH CỦA VĂN PHÒNG CÔNG CHỨNG CẦN PHÙ HỢP VỚI THỰC TIỄN

25/06/2024

Thảo luận tại Hội trường về dự án Luật Công chứng (sửa đổi), nhiều đại biểu Quốc hội quan tâm đến mô hình tổ chức và tư cách thành viên của Văn phòng công chứng. Theo đó, các đại biểu cho rằng, quy định về chấm dứt tư cách thành viên hợp danh của Văn phòng công chứng cần phù hợp với thực tiễn.

TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP SÁNG 25/6: QUỐC HỘI THẢO LUẬN VỀ DỰ ÁN LUẬT CÔNG CHỨNG (SỬA ĐỔI)

Xem xét loại hình Văn phòng công chứng phù hợp ở vùng sâu, vùng xa

Cho ý kiến về vấn đề về mô hình tổ chức của Văn phòng công chứng, đại biểu Nguyễn Hữu Thông – Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Thuận nhận thấy rằng, dự thảo Luật kế thừa quy định của Luật hiện hành, khoản 1 Điều 20 của dự thảo Luật quy định Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo loại hình công ty hợp danh. Đại biểu bày băn khoăn vì trên thực tế ở vùng sâu, vùng xa, những nơi mức độ giao dịch dân sự, kinh tế còn thấp, nhu cầu sử dụng dịch vụ công chứng của người dân chưa cao.

Theo đại biểu, ở những nơi này có thể cho phép thành lập loại hình Văn phòng công chứng do một công chứng viên làm chủ là rất phù hợp, một mặt vừa góp phần thúc đẩy mạnh mẽ chủ trương xã hội hóa hoạt động công chứng, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho người dân ở vùng sâu, vùng xa, hải đảo sớm được tiếp cận dịch vụ công chứng mà không cần thiết phải đi xa để thực hiện như hiện nay. Mặt khác, đối với những nơi này, việc thành lập và duy trì mô hình công chứng với hai công chứng viên là không cần thiết, có thể gây lãng phí nguồn lực công chứng viên, và nguồn thu để đảm bảo duy trì hoạt động của Tổ chức hành nghề công chứng với 02 công chứng viên là rất khó.

Đại biểu Nguyễn Hữu Thông – Đoàn ĐBQH tỉnh Bình Thuận phát biểu

Do đó, đại biểu đề nghị cơ cơ quan chủ trì soạn thảo cần cân nhắc, tính toán kỹ việc quy định về loại hình tổ chức hành nghề công chứng, bên cạnh loại hình công ty hợp danh như Luật hiện hành, nên chăng ở vùng sâu, vùng xa, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn thì được thành lập thêm loại hình văn phòng công chứng chỉ một công chứng viên (loại hình doanh nghiệp tư nhân).

Cũng đưa ra quan điểm về vấn đề này, đại biểu Trần Văn Tuấn- Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Giang cho biết, hiện đang có 02 loại ý kiến: Tán thành và không tán thành.

Đại biểu đồng tình với loại loại ý kiến thứ hai là nên cho phép thành lập Văn phòng công chứng do một công chứng viên làm chủ. Ngoài một số lý do như trong Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Pháp luật, bổ sung, nhấn mạnh nhấn mạnh một số lý do sau:

Đại biểu Trần Văn Tuấn- Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Giang tham gia ý kiến

Thứ nhất, việc cho phép thành lập Văn phòng công chứng do một công chứng viên làm chủ theo loại hình doanh nghiệp tư nhân nhằm bảo đảm quyền tự do lựa chọn hình thức tổ chức hành nghề đối với công chứng viên.

Thứ hai, chúng ta không nên vì những bất cập trong việc tổ chức Văn phòng công chứng theo loại hình doanh nghiệp tư nhân theo Luật Công chứng năm 2006 (như khi xảy ra tình huống công chứng viên duy nhất chết hoặc vì lý do khác không thể hành nghề công chứng thì không bảo đảm hoạt động liên tục, ổn định của tổ chức hành nghề công chứng…) mà loại bỏ mô hình này; chúng ta nên nhìn nhận đây là vấn đề về quản lý, tổ chức thực hiện cần được giải quyết, khắc phục thông qua sửa đổi Luật lần này.

Quy định về chấm dứt tư cách thành viên hợp danh cần phù hợp với thực tiễn

Đóng góp ý kiến hoàn thiện dự thảo Luật đối với nội dung về chấm dứt tư cách thành viên hợp danh của Văn phòng công chứng, đại biểu Nguyễn Đại Thắng – Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên nêu rõ, tại khoản 2 Điều 26 dự thảo luật quy định: “Công chứng viên hợp danh có quyền rút vốn khỏi Văn phòng công chứng hoặc chuyển nhượng vốn góp của mình cho công chứng viên hợp danh khác của Văn phòng công chứng khi được ít nhất ba phần tư tổng số công chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng chấp thuận bằng văn bản và Văn phòng công chứng phải còn ít nhất là 02 công chứng viên hợp danh tại thời điểm công chứng viên hợp danh được rút vốn hoặc chuyển nhượng vốn góp”. Đại biểu đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo nghiên cứu lại quy định nêu trên để bảo đảm tính khả thi trong thực tiễn, vì quy định như trong dự thảo sẽ khó áp dụng trong thực tiễn.

Đại biểu Nguyễn Đại Thắng – Đoàn ĐBQH tỉnh Hưng Yên đóng góp ý kiến

Theo đại biểu, trên thực tế, hầu hết hiện nay các Văn phòng công chứng chỉ có 02 công chứng viên hợp danh, trong đó 01 công chứng viên đồng thời là Trưởng Văn phòng công chứng, nếu trong trường hợp Văn phòng công chứng chỉ có 02 công chứng viên hợp danh mà 01 công chứng viên hợp danh có nhu cầu rút vốn hoặc chuyển nhượng nhưng lại không được sự chấp thuận của công chứng viên còn lại thì việc thực hiện chấm dứt tư cách thành viên hợp danh của Văn phòng công chứng sẽ được thực hiện như thế nào.

Cùng quan tâm về nội dung này, đại biểu Nguyễn Văn Mạnh – Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc chỉ ra rằng, tại khoản 1 và khoản 2 Điều 26 có quy định mâu thuẫn với Điều 20 của dự thảo Luật. Cụ thể tại Điều 26 quy định Công chứng viên hợp danh có quyền rút vốn khỏi Văn phòng công chứng hoặc chuyển nhượng vốn góp của mình cho công chứng viên hợp danh khác của Văn phòng công chứng khi được ít nhất ba phần tư tổng số công chứng viên hợp danh của Văn phòng công chứng chấp thuận bằng văn bản và Văn phòng công chứng phải còn ít nhất là 02 công chứng viên hợp danh tại thời điểm công chứng viên hợp danh được rút vốn hoặc chuyển nhượng vốn góp. Tuy nhiên, tại khoản 1 Điều 20 quy định Văn phòng công chứng phải có từ hai thành viên hợp danh trở lên và không có thành viên góp vốn.

Đại biểu Nguyễn Văn Mạnh – Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc phát biểu tại phiên thảo luận

Đại biểu đề nghị bỏ từ “rút vốn” và thay đổi một số cụm từ diễn đạt cho phù hợp. Theo đó, cần sửa lại như sau: “Công chứng viên chấm dứt tư cách thành viên hợp danh khi tự nguyện rút tư cách thành viên tại Văn phòng công chứng hoặc chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của mình”. Đồng thời, tại khoản 2 sẽ sửa lại là: “Công chứng viên hợp danh có quyền rút tư cách thành viên hợp danh tại Văn phòng công chứng hoặc chuyển nhượng quyền và nghĩa vụ của mình”.

Cũng tại khoản 2, đại biểu đề nghị xem xét thay cụm từ “chậm nhất là 06 tháng” thành cụm từ “tối thiểu hoặc ít nhất là 06 tháng” vì nội dung này cũng đã được quy định tại Thông tư số 01 của Bộ Tư pháp. Do đó, cần cách viết rõ ràng để tránh gây nhiều cách hiểu khác nhau. Ở đây hàm ý của Cơ quan soạn thảo là việc rút vốn phải được thông báo trước ít nhất là 06 tháng.

Hồ Hương