SỚM CÓ CHÍNH SÁCH ƯU TIÊN ĐÃI NGỘ, CHẾ ĐỘ TIỀN LƯƠNG TƯƠNG XỨNG ĐỐI VỚI NHÀ GIÁO
CHÍNH PHỦ ĐỀ NGHỊ BỔ SUNG DỰ ÁN LUẬT NHÀ GIÁO VÀO CHƯƠNG TRÌNH XÂY DỰNG LUẬT, PHÁP LỆNH NĂM 2024
Một trong những yếu tố then chốt để có nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự phát triển đất nước cần có đội ngũ nhà giáo giỏi, tâm huyết với nghề. Do đó, Nhà nước cũng cần có sự thay đổi về chính sách, chế độ đãi ngộ để thu hút người giỏi vào ngành Sư phạm cũng như các nhà giáo có chuyên môn cao gắn bó với nghề; đồng thời có quy định cụ thể, chặt chẽ hơn trong việc quản lý nhà giáo ngoài công lập, giáo viên nước ngoài đang giảng dạy tại Việt Nam... Chính vì vậy, Chính phủ cũng đã có Tờ trình số 435/TTr-CP gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc đề nghị bổ sung dự án Luật này vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024.
Cho đến nay, Bộ Giáo dục và Đào tạo đang được giao nhiệm vụ lấy ý kiến tham vấn từ các cơ quan chuyên môn, chuyên gia, đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục… để xây dựng dự án Luật Nhà giáo. Trong những nội dung được đưa ra bàn thảo, lấy ý kiến có quy định nhà giáo phải có giấy chứng nhận nghề nghiệp.
TS.Vũ Minh Đức, Cục trưởng Cục Nhà giáo (Bộ Giáo dục và Đào tạo).
TS.Vũ Minh Đức, Cục trưởng Cục Nhà giáo (Bộ Giáo dục và Đào tạo) cho biết, giấy chứng nhận nghề nghiệp thể hiện năng lực của đội ngũ nhà giáo. Đồng thời sẽ thay thế cho hai giấy tờ quan trọng gồm: Quyết định công nhận hết thời gian tập sự của giáo viên và giấy chứng nhận hoàn thành bồi dưỡng tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp. Nếu giáo viên được cấp giấy chứng nhận nghề nghiệp thì không cần phải có hai loại giấy này nữa và như vậy thủ tục giấy tờ sẽ bớt đi.
Theo TS.Vũ Minh Đức, hiện nay chỉ nhà giáo công tác khu vực công lập được tham gia bồi dưỡng và cấp giấy chứng nhận tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp trong khi giáo viên ở khu vực ngoài công lập lại không có. Do vậy, quy định giấy chứng nhận nghề nghiệp nhằm tạo sự bình đẳng giữa nhà giáo làm việc ở cơ sở giáo dục công lập và ngoài công lập. Với giấy chứng nhận này, nhà giáo có thể chuyển từ đơn vị này sang đơn vị khác một cách dễ dàng. Bởi thực tế hiện nay, nhiều giáo viên khi được tuyển dụng nhưng vẫn phải trải qua thời gian thử việc hay tập sự. Tuy nhiên, nếu có giấy chứng nhận nghề nghiệp coi như giáo viên đã đáp ứng được yêu cầu. Điều này sẽ rất ý nghĩa đối với giảng viên đại học khi tham gia hoạt động hợp tác quốc tế, giảng dạy ở nước ngoài, nếu nước sở tại có thỏa thuận với Việt Nam về việc công nhận trình độ, nghề nghiệp thì hoạt động liên kết, hợp tác sẽ rất thuận lợi. Hiện nay, nhiều nước đã sử dụng chứng nhận nghề nghiệp như một minh chứng và Việt Nam cần triển khai để phù hợp với thông lệ quốc tế.
TS.Vũ Minh Đức cũng cho biết thêm, dự kiến trong dự án Luật Nhà giáo cũng có những điều khoản quy định người nước ngoài nếu hành nghề giảng dạy ở Việt Nam buộc phải có giấy chứng nhận nghề nghiệp được cấp bởi quốc gia của họ, tương thích và được Việt Nam công nhận.
Ngoài ra, khi hành nghề giảng dạy tại Việt Nam, người nước ngoài phải được bồi dưỡng về văn hóa, pháp luật cũng như các nội dung khác theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo thì mới được hành nghề giảng dạy. Dự kiến, khi xây dựng dự án Luật Nhà giáo sẽ có những quy định chặt chẽ hơn về tiêu chuẩn giáo viên nước ngoài khi giảng dạy ở Việt Nam.
Liên quan đến thủ tục để cấp giấy chứng nhận nghề nghiệp nhà giáo, TS.Vũ Minh Đức cho biết, đối với giáo viên đã có quyết định tuyển dụng và đang giảng dạy tại các cơ sở giáo dục đương nhiên sẽ được cấp, không cần phải trải qua bất kỳ một đợt sát hạch nào cả.
Đối với những người đã tốt nghiệp tại các trường đại học Sư phạm hoặc tốt nghiệp những ngành nghề khác muốn trở thành giáo viên thì sau khi hoàn thành thời gian tập sự, được công nhận đạt kết quả tập sự và đáp ứng các tiêu chuẩn khác thì được cấp giấy chứng nhận. Trường hợp các nhà giáo nghỉ hưu nhưng nếu có nguyện vọng cũng sẽ được cấp giấy chứng nhận này như một sự ghi nhận cống hiến đối với sự nghiệp giáo dục.
Về nguyên tắc, giấy chứng nhận nghề nghiệp không phải là một giấy phép con mà là minh chứng cho năng lực nghiệp vụ và thay thế cho một số giấy tờ khác, đơn giản hóa các thủ tục, giấy tờ. Việc cấp giấy chứng nhận nghề nghiệp đảm bảo thủ thục đơn giản nhất, cấp miễn phí và giáo viên được sử dụng suốt đời. Chỉ trong trường hợp nhà giáo vi phạm kỷ luật, vi phạm quy định pháp luật mới bị xem xét tước giấy chứng nhận. Về quyền hạn cấp giấy chứng nghề nghiệp, TS.Vũ Minh Đức cho biết, theo thông lệ, giấy chứng nhận này được cấp bởi các hội nghề nghiệp nhà giáo.
Tuy nhiên, ngoại trừ Hiệp hội các trường Đại học, Cao đẳng Việt Nam, hiện nay chưa có hội nghề nghiệp nào ở các bậc học từ mầm non đến THPT. Do vậy, trước tiên cơ quan quản lý Nhà nước sẽ phải thực hiện nhiệm vụ cấp giấy chứng nhận này. Sau này khi có những hội nghề nghiệp Nhà giáo, có thể Luật giao quyền cho các hiệp hội này cấp giống như thông lệ quốc tế.
Việc quản lý nhà giáo còn nhiều vướng mắc, bất cập cần có sự điều chỉnh
Theo Chính phủ, việc xây dựng Luật Nhà giáo nhằm thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước trong công tác giáo dục nói chung, công tác xây dựng, phát triển đội ngũ nhà giáo nói riêng.
Bên cạnh đó, thực trạng đội ngũ nhà giáo và việc quản lý đội ngũ nhà giáo đòi hỏi đổi mới quản lý, trên cơ sở một khung pháp lý thống nhất. Trong những năm gần đây, đội ngũ nhà giáo đã được quan tâm, nhưng thực tế vẫn còn không ít bất cập cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng nhà giáo. Việc quản lý nhà giáo còn nhiều vướng mắc, bất cập như: chưa có đầy đủ quy định để quản lý nhà giáo ngoài công lập; việc coi nhà giáo ngoài công lập như người lao động bình thường và chịu sự điều chỉnh bởi các quy định của Bộ luật Lao động là không phù hợp; việc giao thoa giữa quản lý ngành và quản lý theo địa bàn, lãnh thổ theo pháp luật hiện hành đã tạo ra những bất cập trong công tác quản lý, phát triển đội ngũ nhà giáo; việc thực hiện, tuyển dụng, bố trí, điều động giáo viên tại các địa phương, cơ sở giáo dục theo Luật Viên chức còn nhiều khó khăn…
Dự án Luật Nhà giáo đang được xây dựng nhằm góp phần nâng cao chất lượng và thuận lợi hơn trong quản lý nhà giáo (ảnh minh họa: Internet).
Các quy định pháp luật hiện hành về nhà giáo còn thiếu đồng bộ, toàn diện, một số quy định quan trọng chưa được thể hiện ở tầm luật. Tuy số lượng văn bản có nội dung quy định về nhà giáo nhiều nhưng các quy định này còn tản mạn, thiếu đồng bộ, bất hợp lý, chất lượng không cao. Thực tế, mặc dù ở Việt Nam đã có Luật Viên chức và nhà giáo chiếm 70% tổng số viên chức toàn quốc, nhưng Luật Viên chức không thể đáp ứng đặc thù nhà giáo và không điều chỉnh đối với nhà giáo ngoài công lập.
Về Luật chuyên ngành, cả Luật Giáo dục đại học và Luật Giáo dục nghề nghiệp đều có chương riêng về nhà giáo nhưng quy định còn chung chung, chưa phản ánh rõ nét tính chất và yêu cầu đặc thù lao động nghề nghiệp của nhà giáo. Nếu cụ thể hóa nội dung nhà giáo trong Luật Giáo dục thì sẽ phá vỡ cấu trúc, mất cân xứng của các Luật này. Bên cạnh đó, nhiều chủ trương, quan điểm của Đảng về nhà giáo chưa được thể chế hóa đầy đủ; một số quan hệ quan trọng chưa được điều chỉnh hoặc quy định chung chung, mờ nhạt, chưa hình thành khung pháp lý đồng bộ và toàn diện trong việc nâng cao động lực và năng lực nhà giáo.
Đặc trưng lao động sư phạm của nhà giáo đòi hỏi những quy định phù hợp: Nhà giáo và nghề dạy học có những đặc trưng riêng, khác biệt với viên chức của các ngành, lĩnh vực khác. Do tính chất đặc thù trong lao động sư phạm của nhà giáo đặt ra yêu cầu cần có môi trường làm việc, hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ, phù hợp tạo thuận lợi cho nhà giáo yên tâm công tác, yêu nghề và tâm huyến với nghề; tạo điều kiện cho sự phát triển sáng tạo, trong một không gian văn hóa được trân trọng, tôn vinh, ghi nhận, phối hợp và hỗ trợ của toàn xã hội. Bên cạnh đó, mặc dù các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Nhà nước đã khẳng định vị thế, vai trò của đội ngũ nhà giáo trong sự phát triển chung của đất nước, nhưng do chưa được luật hóa đầy đủ nên còn bất cập trong việc khắc phục tình trạng gia tăng người giỏi không muốn vào ngành sư phạm, nhà giáo bỏ việc.
Ngoài ra, trên kinh nghiệm quốc tế về quản lý nhà giáo, nhìn chung các quốc gia hiện nay đều ban hành Luật về nhà giáo dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ nhà giáo, cả công lập và tư thục, với tư cách là nguồn nhân lực chất lượng cao quan trọng của đất nước. Trong đó, có thể khái quát thành 03 mô hình cơ bản bao gồm: Xây dựng và ban hành Luật riêng điều chỉnh về nhà giáo; Xây dựng một chương hoặc một quyển về nhà giáo trong Bộ Luật Giáo dục; Ban hành luật nhằm thể chế hóa một số chính sách đặc trưng của nhà giáo. Với xu hướng quốc tế hoá giáo dục, việc lựa chọn kinh nghiệm quốc tế phù hợp trong việc xây dựng chính sách và pháp luật về nhà giáo là cần thiết./.