Dự hội nghị còn có các đồng chí Ủy viên, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các đồng chí lãnh đạo các Ban, Bộ, ngành, đoàn thể ở Trung ương, các đồng chí trong Ban Thường vụ Đảng ủy trực thuộc Trung ương, Ủy viên Ủy ban Kiểm tra Trung ương, các đồng chí lãnh đạo cấp vụ các ban Xây dựng Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng.
Tại các điểm cầu các thành ủy, tỉnh ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương có các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư, các đồng chí ủy viên Ban thường vụ, ủy viên Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh, lãnh đạo các ban, sở, ngành, đoàn thể, các đồng chí lãnh đạo cấp cao đã nghỉ hưu trên địa bàn các tỉnh, thành phố.
Các đại biểu tham dự Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại điểm cầu Nhà Quốc hội.
Hội nghị được kết nối với 16.242 điểm cầu các ban, bộ, ngành, đoàn thể, các đơn vị ở trung ương và địa phương trên toàn quốc. Có 1.441.261 lãnh đạo, cán bộ, đảng viên tham dự Hội nghị nghiên cứu, học tập, quán triệt nghị quyết. Hội nghị diễn ra trong 1,5 ngày, trong đó có 01 ngày nghiên cứu, học tập nghị quyết, 0,5 ngày dành cho các đảng ủy trực thuộc trung ương triển khai chương trình hành động thực hiện nghị quyết.
Theo chương trình, Hội nghị nghe các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, truyền đạt 4 chuyên đề: Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới; Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ tri thức đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững trong giai đoạn mới.
Trong buổi sáng, Hội nghị nghe Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng truyền đạt về chuyên đề “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”. Tiếp đó, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính truyền đạt chuyên đề: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”.
Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước.
Truyền đạt chuyên đề “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã khái quát vài nét về Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 12/3/2003, Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng đã lý giải vì sao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII lại ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc. Đồng thời, giới thiệu những nội dung chủ yếu của Nghị quyết số 43-NQ/TW, đặc biệt là những vấn đề mới, vấn đề mà Trung ương đã làm rõ về truyền thống đoàn kết toàn dân tộc.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng truyền đạt chuyên đề “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng nêu rõ, sau 20 năm thực hiện Nghị quyết số 23-NQ/TW, các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và Nhân dân ngày càng nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của việc phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc ở một số lĩnh vực, địa bàn hiệu quả chưa cao, chưa khơi dậy, phát huy được tiềm năng to lớn trong Nhân dân.
Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phấn đấu đưa nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045, đòi hỏi phải đẩy mạnh, phát huy cao độ truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Vì vậy, qua thảo luận, Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã thống nhất và ban hành Nghị quyết số 43-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng nhấn mạnh quan điểm đại đoàn kết toàn dân tộc là truyền thống quý báu, đường lối chiến lược quan trọng, xuyên suốt của Đảng; nguồn sức mạnh to lớn, nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lấy mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045 làm điểm tương đồng để động viên, cổ vũ Nhân dân đồng lòng, chung sức thực hiện vì tương lai của dân tộc, hạnh phúc của Nhân dân. Đại đoàn kết toàn dân tộc phải gắn với phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; Đại đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân, là trách nhiệm của Đảng và cả hệ thống chính trị…
Mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết số 43-NQ/TW là tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, hạnh phúc; góp phần thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao, đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện mục tiêu này, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cho biết, Nghị quyết số 43-NQ/TW đã nêu những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu: Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, của các cấp ủy, tổ chức đảng, hệ thống chính trị và Nhân dân về vị trí, tầm quan trọng của việc phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Hoàn thiện chủ trương, chính sách về đại đoàn kết toàn dân tộc, khơi dậy ý chí, khát vọng phát triển đất nước. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh; tăng cường đoàn kết trong Đảng, giữ vững vai trò hạt nhân lãnh đạo của Đảng trong xây dựng và phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Nân cao vai trò, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, tiềm năng và sức sáng tạo của Nhân dân. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội; đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, huy động mọi nguồn lực cho phát triển đất nước. Tổ chức các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước thiết thực, hiệu quả.
Chính sách xã hội: Chăm lo cho con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm
Tiếp đó, Hội nghị nghe Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính truyền đạt chuyên đề: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”, với 5 phần: (1) Yếu tố nền tảng xây dựng chính sách xã hội; (2) Đánh giá khái quát 10 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 10/6/2012, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) Về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020; (3) Sự cần thiết ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới; (4) Những nội dung chính trong Nghị quyết số 42-NQ/TW; (5) Khái quát những điểm mới, nổi bật và trọng tâm của Nghị quyết số 42-NQ/TW.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính truyền đạt chuyên đề: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nêu rõ, sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa XI về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012-2020 đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, thể hiện ngày càng rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta; kinh tế - xã hội phát triển toàn diện và hài hòa hơn, đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân không ngừng được cải thiện và nâng cao, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững…
Tuy nhiên, chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội vẫn còn một số hạn chế, yếu kém, chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém chủ yếu do nhận thức của một số cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, cán bộ, đảng viên về vị trí, vai trò của chính sách xã hội chưa đầy đủ, toàn diện. Hệ thống chính sách, pháp luật về chính sách xã hội chưa hoàn thiện, đồng bộ; công tác quản lý nhà nước còn bất cập. Nguồn lực đầu tư của Nhà nước và xã hội còn hạn chế; việc huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực có nơi, có lĩnh vực hiệu quả chưa cao.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cho biết, tại Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã bám sát Cương lĩnh của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước, các quan điểm và định hướng của Đảng về chính sách xã hội qua các thời kỳ Đại hội, nhất là Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII và qua tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 10/6/2012, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) Về một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 – 2020, Hội nghị đã dành nhiều thời gian thảo luận, thống nhất cao ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Quan điểm của Nghị quyết số 42-NQ/TW đã khẳng định chính sách xã hội là chính sách chăm lo cho con người, vì con người, lấy con người làm trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu, động lực, nguồn lực để phát triển bền vững đất nước. Đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội theo hướng toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững. Đầu tư cho chính sách xã hội là đầu tư cho phát triển và bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân…
Nghị quyết số 42-NQ/TW đã nêu mục tiêu đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045. Trong đó, mục tiêu tổng quát đến năm 2030, xây dựng hệ thống chính sách xã hội theo hướng bền vững, tiến bộ và công bằng, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, góp phần cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững; tạo cơ hội cho Nhân dân, nhất là người nghèo, người có hoàn cảnh khó khăn, người sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là về y tế, giáo dục, nhà ở, thông tin. Phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, hội nhập quốc tế, gắn với việc làm bền vững; nâng cao chất lượng quản lý phát triển xã hội gắn với bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính cũng nêu 37 chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2030 được nêu trong Nghị quyết số 42-NQ/TW, trong đó đảm bảo 100% người có công và gia đình người có công với cách mạng được chăm lo toàn diện cả về vật chất và tinh thần, có mức sống từ trung bình khá trở lên so với mức sống của cộng đồng dân cư nơi cư trú. Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ mẫu giáo từ 3-5 tuổi; Xây dựng ít nhất một triệu căn hộ nhà ở xã hội; Có ít nhất 75% người dân ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, 80% các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được thụ hưởng và tham gia các hoạt động văn hóa, nghe, xem các kênh phát thanh, truyền hình của quốc gia và địa phương…
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính nêu một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu thực hiện Nghị quyết: Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của chính sách xã hội. Nâng cao năng lực, hiệu lực quản lý nhà nước về chính sách xã hội. Thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Phát triển thị trường lao động, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo việc làm bền vững cho người lao động. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội bảo đảm định hướng, xã hội chủ nghĩa, không để ai bị bỏ lại phía sau. Nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm mọi người dân được tiếp cận, thụ hướng các dịch vụ xã hội cơ bản có chất lượng. Đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ xã hội. Đẩy mạnh hợp tác và tranh thủ nguồn lực, kinh nghiệm quốc tế trong thực hiện chính sách xã hội. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng trong thực hiện chính sách xã hội.
Một số hình ảnh tại Hội nghị:
Toàn cảnh Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại điểm cầu Nhà Quốc hội.
Đồng chí Lại Xuân Môn, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương tuyên bố lý do, giới thiệu đại biểu.
Các đại biểu tham dự Hội nghị toàn quốc nghiên cứu, học tập, quán triệt Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tám, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tại điểm cầu Nhà Quốc hội.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng truyền đạt chuyên đề “Tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính truyền đạt chuyên đề: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”.
Các đại biểu tham dự Hội nghị tại điểm cầu Nhà Quốc hội