KẾT QUẢ GIÁM SÁT VIỆC TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CÁC NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ 03 CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA

17/11/2023

Chuyên đề giám sát về việc thực hiện 03 Chương trình mục tiêu quốc gia đã chỉ ra những kết quả đạt được cũng như tồn tại, hạn chế, qua đó đề xuất các giải pháp để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy thực hiện các chương trình đạt hiệu quả cao hơn. Cổng TTĐT Quốc hội trân trọng giới thiệu bài viết “Kết quả giám sát việc triển khai thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030” của TS.Nguyễn Lâm Thành, Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội.

TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP SÁNG 17/11: HỘI NGHỊ TRIỂN KHAI THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI NĂM 2024

GÓC NHÌN CHUYÊN GIA: MỘT SỐ Ý KIẾN GÓP Ý DỰ THẢO LUẬT ĐẤT ĐAI, LUẬT NHÀ Ở, LUẬT KINH DOANH BẤT ĐỘNG SẢN Ở VIỆT NAM

GÓC NHÌN CHUYÊN GIA: THÚC ĐẨY NỀN KINH TẾ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

GIÁM SÁT BA CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA: GIẢI QUYẾT NHIỀU NHIỆM VỤ, KHỐI LƯỢNG CÔNG VIỆC LỚN, VỚI CÁCH TIẾP CẬN VÀ CÁCH LÀM MỚI PHÙ HỢP

Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới (gọi tắt là Chương trình Nông thôn mới - CTNTM) giai đoạn 2021-2025 được Quốc hội thông qua chủ trương tại Nghị quyết số 25/2021/QH15 ngày 28/7/2021, có tổng kinh phí tối thiểu là 196.332 tỷ đồng (vốn ngân sách trung ương: 39.632 tỷ đồng, vốn ngân sách địa phương: 156.700 tỷ đồng). Ngoài chính sách chung, Chương trình còn có 06 chuyên đề trọng tâm và thực hiện trên địa bàn 63 tỉnh, (thành phố) cả nước.

Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững (GNBV) giai đoạn 2021 - 2025 được Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 24/2021/QH15. Chương trình có tổng nguồn vốn tối thiểu (số làm tròn) là 75.000 tỷ đồng (vốn ngân sách trung ương 48.000 tỷ đồng; vốn ngân sách địa phương 12.690 tỷ đồng, vốn huy động hợp pháp khác là 14.310 tỷ đồng). Chương trình gồm 07 dự án, kết cấu thành 02 dự án độc lập và 05 dự án với 11 tiểu dự án, được thực hiện trên địa bàn 63 tỉnh, (thành phố) (trong đó có 48 tỉnh sử dụng vốn ngân sách Nhà nước).   

Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi được Quốc hội phê duyệt Chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 có kinh phí tối thiểu (số làm tròn) là 137.000 tỷ đồng, (trong đó vốn đầu tư 50.000 tỷ đồng; vốn sự nghiệp 54.000 tỷ đồng; vốn ngân sách địa phương là 10.000 tỷ đồng; vốn vay tín dụng chính sách gần 20.000 tỷ đồng; vốn huy động hợp pháp khác gần 3.000 tỷ đồng). Chương trình gồm 10 dự án, 14 Tiểu dự án, thực hiện trên địa bàn 49 tỉnh.  

Đây là 03 Chương trình có vị trí, vai trò và ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo và thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, góp  phần giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân theo nghị quyết của Đảng đã đề ra. Xuất phát từ yêu cầu của thực tiễn đặt ra cũng như tinh thần đổi mới. Ngày 06/6/2022 Quốc hội đã biểu quyết thông qua Nghị quyết số 47/2022/QH15 về Chương trình giám sát năm 2023, trong đó xác định tiến hành giám sát tối cao chuyên đề “Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030”.

Đây là lần đầu tiên Quốc hội giám sát giữa kỳ, đồng thời với 3 Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG), có phạm vi rộng, cùng với những yêu cầu đổi mới. Việc xác định nội dung trọng tâm là giám sát, đánh giá tiến trình chính sách và công tác chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện là hướng tiếp cận đúng, nhất là trong bối cảnh các Chương trình đang bị chậm tiến độ theo mục tiêu, yêu cầu đề ra.

Thực hiện nhiệm vụ được phân công, Đoàn giám sát đã giải quyết nhiều nhiệm vụ, khối lượng công việc lớn với cách tiếp cận và cách làm mới phù hợp; chuẩn bị kỹ từ kế hoạch chi tiết, đề cương báo cáo, thành lập, phân công tổ giúp việc, các tổ, đoàn công tác, tiến hành giám sát trực tiếp Chính phủ, 11 bộ, ngành và 15 tỉnh đại diện cho các vùng, miền và mức độ thụ hưởng các Chương trình; tổ chức nhiều cuộc làm việc với các Bộ, ngành, Chính phủ; sử dụng tối đa kết quả kiểm toán, thanh tra và ý kiến của các Bộ, ngành, các địa phương. Quá trình giám sát Đoàn Giám sát đã nhận được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo Quốc hội (đặc biệt là đồng chí Chủ tịch Quốc hội), Ủy ban Thường vụ Quốc hội, sự tham gia của các cơ quan Quốc hội và các Đoàn đại biểu Quốc hội, thể hiện tình thần đồng hành, giám sát để kiến tạo của Quốc hội.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (nhất là đồng chí Phó Thủ tướng, Trưởng ban chỉ đạo 3 Chương trình) đã chỉ đạo sát sao, quyết liệt; các bộ, ngành, địa phương có nhiều cố gắng, nỗ lực chuẩn bị tốt các nội dung phục vụ hoạt động giám sát, đồng thời tiếp thu ý kiến của Đoàn giám sát, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách để đẩy nhanh tiến độ thực hiện các CTMTQG.

2.1. Đánh giá về việc thực hiện Chương trình Nông thôn mới

2.1.1. Ưu điểm: Kế thừa và phát huy kết quả các giai đoạn trước, phong trào xây dựng nông thôn mới của cả nước đã bám sát mục tiêu: “gắn với thực hiện có hiệu quả cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, quá trình đô thị hoá, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững”.

Hệ thống văn bản thực hiện từ Trung ương đến địa phương được ban hành tương đối đầy đủ, có đổi mới, cơ bản phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. Một số địa phương đã chủ động nghiên cứu, ban hành các chính sách đặc thù, có cách làm hay, mô hình tốt, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và người dân.

Về giải ngân vốn, theo số liệu của Bộ Tài chính lũy kế đến hết tháng 06/2023, vốn đầu tư công năm 2022 chuyển sang thực hiện năm 2023 giải ngân đạt khoảng 83%; vốn thực hiện năm 2023 đạt khoảng 44,5%, đặc biệt vốn địa phương đều hoàn thành 100%.

Tính đến 30/6/2023, cả nước có 6.022/8.177 xã (73,65%) đạt chuẩn nông thôn mới, 1.331 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao và 176 xã đạt chuẩn nông thôn mới kiểu mẫu; có 263/644 đơn vị cấp huyện (40,8%) được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn nông thôn mới; 19 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có 100% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (trong đó, có 05 tỉnh hoàn thành chương trình nông thôn mới). Bình quân cả nước đạt 16,9 tiêu chí/xã; có 02 tiêu chí đã vượt mục tiêu giai đoạn 2021-2025 (Tiêu chí số 14 về Giáo dục và đào tạo và Tiêu chí số 16 về Văn hóa), 08 tiêu chí được đánh giá là gần đạt được mục tiêu.

Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương và Đoàn giám sát của Quốc hội khảo sát tuyến đường kết nối xã Thanh Bình và xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai.

2.1.2. Hạn chế, bất cập: trong bối cảnh chung, hệ thống các văn bản chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn thực hiện của Trung ương và địa phương còn nhiều, ban hành chậm, chưa đồng bộ, còn có vướng mắc nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung kịp thời; chưa ban hành tiêu chí Nông thôn mới phù hợp cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi theo Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị. .

- Nguồn vốn đầu tư phát triển ngân sách trung ương phân bổ chậm, tỷ lệ đối ứng còn cao gây khó khăn cho một số địa phương, nhất là các tỉnh nghèo. Tiến độ giải ngân kế hoạch vốn ngân sách trung ương năm 2022 và giai đoạn 2021-2025 còn chậm so với yêu cầu; khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp không cao; việc huy động nguồn lực người dân và doanh nghiệp tham gia xây dựng NTM  hạn chế.

- Kết quả xây dựng nông thôn mới còn chưa đồng đều, chưa thực sự bền vững; một số địa phương thiếu quyết liệt và có dấu hiệu chững lại trong chỉ đạo thực hiện xây dựng nông thôn mới; cơ chế lồng ghép nguồn vốn ngân sách trung ương của các Chương trình để hỗ trợ xây dựng nông thôn mới trên địa bàn các xã đặc biệt khó khăn, các huyện nghèo còn rất hạn chế, chưa thực sự hiệu quả; một số địa phương vẫn còn nợ tiêu chí, nợ đọng trong xây dựng cơ bản. Cơ sở hạ tầng có dấu hiệu xuống cấp, công tác duy trì kết quả bền vững ở một số xã sau khi hoàn thành nông thôn mới còn hạn chế. Có nhiều xã khi áp dụng Bộ tiêu chí xã nông thôn mới mới giai đoạn 2021-2025 thì bị tụt tiêu chí. Đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn các tiêu chí cơ bản như: Số 10 về thu nhập, 11 về nghèo đa chiều, 13 về tổ chức sản xuất và phát triển kinh tế nông thôn chưa đạt hoặc khó duy trì.

2.2. Chương trình giảm nghèo bền vứng

2.2.1. Ưu điểm: Giai đoạn 2021-2025, mục tiêu về giảm nghèo cao hơn so với các giai đoạn trước, gắn với các mục tiêu phát triển bền vững nhưng địa bàn, đối tượng thực hiện Chương trình lại tập trung vào các “lõi nghèo” khó khăn nhất của cả nước. Việc triển khai thực hiện Chương trình đã cơ bản bám sát mục tiêu“Thực hiện giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững”. Trong quá trình tổ chức thực hiện, nhiều địa phương có mô hình hay, cách làm sáng tạo đạt hiệu quả.  

Đến tháng 9/2022, là Chương trình đầu tiên trong 3 Chương trình MTQG đã cơ bản hoàn thành việc xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện ở cấp Trung ương. Các địa phương đã cơ bản ban hành đầy đủ văn bản theo quy định.

Tổng nguồn vốn thực hiện Chương trình từ tháng 12/2021 đến năm 2023 là 23.130,261 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 30,84% tổng nguồn vốn 5 năm, trong đó chủ yếu là nguồn vốn ngân sách trung ương chiếm khoảng 95%. Vốn nhận ủy thác từ ngân sách địa phương đến 30/6/2023 lũy kế là 34.527 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 10,8%.

Chương trình đã thực hiện cơ bản đạt mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo, tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số hằng năm, bước đầu cải thiện mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân. Năm 2021, tỷ lệ hộ nghèo giảm 0,52% so với năm 2020, năm 2022, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,17% và ước thực hiện năm 2023 giảm 1,1%, tỷ lệ giảm nghèo dân tộc thiểu số giảm trên 3%, đạt và vượt mục tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng XIII, Nghị quyết 24 của Quốc hội đã đề ra.

2.2.2. Tồn tại, hạn chế: Giải ngân vốn ngân sách trung ương năm 2022 (đến 31/01/2023) đạt 35,63% kế hoạch (vốn đầu tư phát triển đạt 45% kế hoạch; vốn sự nghiệp đạt 6,39% kế hoạch); giải ngân vốn đầu tư công năm 2022 kéo dài sang năm 2023 đạt 53% kế hoạch; giải ngân kinh phí sự nghiệp nguồn ngân sách trung ương năm 2023 đến tháng 6/2023 chỉ đạt 6,53%; giải ngân vốn đầu tư công ước đến 31/8/2023 đạt 31,9% kế hoạch.

Việc phát huy quyền làm chủ, sự tham gia tích cực, chủ động của cộng đồng và người dân vào công tác giảm nghèo còn chưa thực chất; hoạt động đào tạo nghề, mô hình phát triển sản xuất, sinh kế triển khai ở các địa phương phần lớn mức chi và tổ chức thực hiện còn theo cách làm cũ. Các địa phương chưa xây dựng tiêu chí khuyến khích cá nhân, hộ gia đình về thoát nghèo, GNBV.

Kết quả giảm tỷ lệ hộ nghèo hằng năm chưa thực sự phản ánh đầy đủ các tác động của Chương trình, phần lớn là do tác động của các chính sách giảm nghèo thường xuyên, tín dụng chính sách xã hội, sự tự lực vươn lên của người dân và tác động của các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an sinh xã hội khác của Nhà nước. Tại các huyện nghèo mới chỉ quan tâm đánh giá việc giảm tỷ lệ hộ nghèo, chưa đánh giá thực chất mức tăng thu nhập bình quân đầu người hàng năm. Có tình trạng một số địa phương để phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới đã “chạy theo thành tích” giảm nghèo nhưng trên thực tế đời sống đời sống người dân chưa được cải thiện, nâng cao một cách thực chất, bền vững sau khi đạt chuẩn nông thôn mới.

2.3. Chương trình phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi

2.3.1. Ưu điểm: Quá trình triển khai thực hiện đã bám sát mục tiêu tổng quát của Chương trình, tập trung nguồn lực, ưu tiên đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, giải quyết những vấn đề cấp thiết về kinh tế, xã hội ở vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn. Đến tháng 6/2023, khối lượng khá lớn các văn bản chỉ đạo, điều hành triển khai thực hiện Chương trình cơ bản đã hoàn thành với 58 văn bản ở cấp trung ương và từ 40-50 văn bản ở cấp địa phương.

Chương trình đã tập trung nguồn lực, ưu tiên đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, giải quyết những vấn đề cấp thiết về kinh tế, xã hội ở vùng khó khăn, đặc biệt khó khăn.

Vốn ngân sách Trung ương trung hạn và hàng năm đã được phân bổ cho các địa phương, đảm bảo theo quy định của. Việc phân bổ ngân sách ở các địa phương đảm bảo theo tiêu chí, định mức và hướng dẫn của Trung ương. Mặc dù còn nhiều khó khăn, tình hình giải ngân năm 2023 đã có tiến bộ về vốn đầu tư công. Đến tháng 9/2023, bao gồm cả vốn 2022 kéo dài sang năm 2023) giải ngân đạt 52% kế hoạch, nhiều địa phương giải ngân trên 60% về vốn đầu tư.

Mặc dù còn nhiều khó khăn trong triển khai thực hiện, nhưng theo báo cáo của Chính phủ tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số năm 2022 giảm 3.4%, đạt và vượt mục tiêu kế hoạch giao.

2.3.2. Tồn tại, hạn chế: Việc ban hành các văn bản quản lý rất chậm, sau hơn 1 năm 2 tháng, kể từ khi Quốc hội ban hành Nghị quyết 120/2020/QH14, Thủ tướng Chính phủ mới ban hành Quyết định 1719/QĐ-TTg về phê duyệt Chương trình. Theo đó, các bộ, ngành ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện các dự án, tiểu dự án còn chậm; chất lượng văn bản chưa cao, phải đính chính, sửa đổi, bổ sung sau khi ban hành.

 Mô hình chỉ đạo, điều hành chưa có sự kiện toàn, đồng bộ, thống nhất giữa Trung ương và địa phương và giũa các địa phương với nhau. Đến tháng 6/2023 vẫn còn 21 tỉnh chưa thành lập Tổ Công tác.

Việc phân bổ vốn chậm (giữa năm 2022), dẫn đến đối tượng thực hiện của một số chính sách, một số địa phương thay đổi, không còn phù hợp. Huy động các nguồn lực từ doanh nghiệp, cá nhân và đóng góp của người dân gặp nhiều khó khăn, đạt thấp so với các năm trước. Bố trí vốn đối ứng của nhiều tỉnh nghèo, ngân sách phụ thuộc vào Trung ương đạt thấp, năm 2022 có 9 tỉnh và năm 2023 có 06 tỉnh chưa bố trí vốn đối ứng.

Kết quả giải ngân theo kế hoạch từ năm 2021-2023 đạt thấp, khoảng 18,9% so với kế hoạch trung hạn, trong đó vốn đầu tư phát triển: 19,5%; vốn sự nghiệp 12,3%. Cả nước có 04 địa phương giải ngân đạt dưới 5%; 06 địa phương đạt từ 5-10%; chỉ có 03 địa phương đạt trên 50%. Giải ngân vốn sự nghiệp là vấn đề rất đáng quan tâm, năm 2022 giải ngân đạt 5,2%, năm 2023 (đến 31/6) giải ngân được 3,9% kế hoạch năm.

Theo báo cáo, nhiều chỉ tiêu của Chương trình đến nay đã đạt và vượt chỉ tiêu đề ra, xong trên thực tế “đời sống đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp rất nhiều khó khăn, kinh tế, xã hội phát triển chậm; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo và nguy cơ tái nghèo cao; khoảng cách giàu nghèo có xu hướng gia tăng”. Khả năng đạt mức thu nhập bình quân vùng dân tộc thiểu số tăng 2 lần so với 2020, giảm 50% số xã đặc biệt khó khăn, hoàn thành các chỉ tiêu về thiếu đất ở, đất sản xuất, quy hoạch dân cư và nhiều chỉ tiêu khác đến năm 2025 là rất khó khăn.

3.1. Ưu điểm

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng hành của Quốc hội và sự quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; kế thừa và phát huy giá trị, thành tựu của giai đoạn trước, kết quả triển khai các Chương trình giai đoạn này bước đầu đạt được một số kết quả tích cực, yêu cầu, nội dung, phạm vi, nguyên tắc trong Nghị quyết của Quốc hội; cơ sở hạ tầng kinh tế, xã hội vùng nông thôn, miền núi được cải thiện nhiều.

Ban Chỉ đạo chung các Chương trình đã kiện toàn thống nhất 01 Ban Chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương. Cơ quan giúp việc cho từng Chương trình căn cứ vào tình hình thực tiễn hoặc kế thừa từ các giai đoạn trước đã thành lập văn phòng điều phối, văn phòng giảm nghèo hoặc tổ công tác.

Việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021-2025, giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 đã có tác động lớn đến xã hội, cải thiện môi trường nông thôn.

Thông qua hoạt động giám sát, cán bộ các cấp, các ngành, địa phương nhận thức thực chất, đầy đủ hơn, là cơ sở quan trọng để tiếp tục đổi mới một cách toàn diện, đẩy mạnh thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia theo chủ trương, định hướng của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội, góp phần phát triển kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.

Chính phủ và các Bộ, ngành đã tăng cường công tác kiểm tra, giám sát liên ngành và riêng từng Chương trình được tăng cường; tổ chức nhiều hội nghị đối thoại, tổng hợp hơn 300 kiến nghị của địa phương, 150 ý kiến của Đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội Khóa XV và nhiều nội dung phát hiện của Đoàn giám sát về những khó khăn, vướng mắc trong triển khai thực hiện các Chương trình để có giải pháp phù hợp.

3.2. Hạn chế, bất cập

Ban Chỉ đạo Chương trình các cấp tuy đã được kiện toàn, thành lập song cơ chế quản lý, chỉ đạo, lãnh đạo vẫn theo tính chất ngành dọc của từng cơ quan; hiệu quả phối hợp liên ngành (theo chiều ngang) chưa thật sự chuyển biến rõ nét, nhất là giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nghiên cứu, chỉ đạo và phối hợp giải quyết những công việc liên quan đến quản lý và tổ chức thực hiện các Chương trình. Vai trò của cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) và sự phối hợp giữa 03 Bộ chủ quản với các bộ ngành trong cơ chế 01 Ban chỉ đạo còn có hạn chế. Mô hình tổ chức, bộ máy giúp việc chưa có sự đồng bộ, thống nhất ở cấp tỉnh, cấp huyện, đa số địa phương cán bộ cấp huyện, xã là kiêm nhiện quản lý, tổ chức thực hiện.

Các cơ quan bộ, ngành liên quan còn hạn chế trong quản lý và tổ chức thực hiện các Chương trình, nhất là việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền quản lý còn chậm, nội dung chưa rõ ràng, khó thực hiện, trích dẫn đến nhiều văn bản khác. Hầu hết các văn bản ban hành đều có vướng mắc phải sửa đổi, bổ sung như Nghị định số 27/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định cơ chế quản lý, tổ chức thực hiện các Chương trình và nhiều thông tư khác, nhất là các thông tư về quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí sự nghiệp từ nguồn ngân sách nhà nước; định mức thực hiện một số chính sách sử dụng vốn sự nghiệp còn thấp, chậm được sửa đổi, quy trình thực hiện phức tạp. Đến nay, một số địa phương vẫn tiếp tục sửa đổi văn bản còn thiếu, chưa rõ ràng. 

Nguồn vốn bố trí chưa tương xứng so với mục tiêu, yêu cầu  đặt ra. Việc lập kế hoạch vốn, phân bổ vốn, giao vốn ngân sách trung ương chậm (quý II/2022). Có nội dung phân bổ vốn chưa sát với tình hình, nhu cầu thực tế của một số địa phương; việc giao vốn sự nghiệp còn bất cập, chưa có sự thống nhất giữa 3 Chương trình.

Còn có sự chồng lấn về địa bàn, nội dung thực hiện Chương trình (nhất là Chương trình giảm nghèo bền vững và Chương trình dân tộc) ở các tỉnh vùng dân tộc thiểu số. Kết quả giảm nghèo chưa đạt được mục tiêu đa chiều, chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo còn cao; đời sống của một bộ phận người dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai còn nhiều khó khăn; chênh lệch về thu nhập, mức độ giảm nghèo và khoảng cách phát triển giữa các địa phương, vùng, miền còn lớn.

Việc nắm bắt các vấn đề, hướng dẫn, hỗ trợ, tháo gỡ các vướng mắc trong triển khai thực hiện Chương trình ở cơ sở (nhất là cấp xã, huyện nghèo) chưa kịp thời. Thực tế ở cấp xã, huyện rất lúng túng trong việc thẩm định giá, quy trình thực hiện đấu thầu, phê duyệt thầu, lựa chọn thầu; điều chỉnh danh mục, quy mô, đối tượng thụ hưởng… với các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất theo cộng đồng và liên kết chuỗi giá trị, các bộ, ngành Trung ương chưa kịp thời tổng hợp được kết quả và công khai minh bạch việc trả lời kiến nghị, khó khăn vướng mắc của địa phương.

Việc lập kế hoạch, xác định nhu cầu một số nơi chưa sát thực tế, dẫn đến phân bổ vốn còn bất cập, có nơi không có đối tượng thực hiện; phân bổ vốn và tiến độ giải ngân vốn ngân sách trung ương chậm, nhất là vốn sự nghiệp, khả năng hoàn thành mục tiêu giải ngân vốn ngân sách trung ương đến năm 2025 là rất khó khăn.

Tồn tại, hạn chế trên đã dẫn đến tình trạng cát cứ, manh mún, phân tán, quyền anh, quyền tôi, làm cho các cơ chế lồng ghép, phân cấp, phân quyền, cơ chế đặc thù theo chủ trương của Đảng và Nhà nước không được phát huy hiệu quả trên thực tế, làm lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.

Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Y Thanh Hà Niê Kđăm giám sát việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về các chương trình mục tiêu quốc gia trên địa bàn huyện Chư Păh (tỉnh Gia Lai). 

3.3. Nguyên nhân

- Nguyên nhân khách quan: Ảnh hưởng từ tình hình kinh tế chung của thị trường thế giới; biến đổi khí hậu, dịch bệnh Covid-19 trong thời gian dài đã tác động không nhỏ đến phát triển kinh tế - xã hội, thu nhập, mức sống người dân. Thay đổi nhân sự, bộ máy tổ chức Ban Chỉ đạo Chương trình cả ở Trung ương và địa phương đã phần nào ảnh hưởng đến công tác chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện.

- Nguyên nhân chủ quan:

(1) Việc phối hợp của một số cơ quan, Bộ, ngành, địa phương còn chưa chặt chẽ. Vai trò của cơ quan thường trực Ban chỉ đạo các Chương trình và chủ quản các chương trình chưa được phát huy, nhất là tham mưu, điều hoà, phối hợp xử lý, giải quyết khó khăn, vướng mắc liên quan đến thẩm quyền, trách nhiệm của 02 bộ ngành trở lên.

(2) Công tác lãnh đạo, chỉ đạo điều hành một số địa phương chưa thực sự sâu sát, có nơi còn lúng túng trong việc ban hành văn bản, hướng dẫn thực hiện theo thẩm quyền

 (3) Năng lực thực tiễn của một bộ phận cán bộ, công chức quản lý, tổ chức thực hiện các Chương trình còn hạn chế về số lượng và chất lượng, nhất là cấp huyện, xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Có tình trạng đùn đẩy, né tránh, tâm lý sợ trách trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ, nhất là trong b ối cảnh cơ sở pháp lý để thực hiện một số chính sách còn chưa rõ ràng, đồng bộ.

 (4) Ứng dụng công nghệ thông tin trong chỉ đạo, điều hành các Chương trình còn chậm, nhất là chưa xây dựng, triển khai kịp thời hệ thống giám sát, đánh giá quản lý, điều hành các Chương trình. Hệ thống thông tin, dữ liệu, báo cáo từ địa phương đến Trung ương chưa đồng bộ, đầy đủ.

Tuyến đường thôn Tả Thền A xã Thanh Bình, huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai được đầu tư từ nguồn vốn Chương trình MTQG phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi

3.4. Bài học kinh nghiệm

Qua quá trình giám sát rút ra những bài học kinh nghiệm sau:

(1) Quán triệt, nhận thức đúng đắn, đầy đủ, rõ ràng các Nghị quyết của Đảng, của Quốc hội, bám sát thực tiễn để bảo đảm nội dung của Nghị quyết được thể chế hóa đầy đủ ngay từ khi xây dựng các CTMTQG, cụ thể hóa cơ chế, chính sách, công tác điều hành, quản lý và tổ chức thực hiện;

(2) Phát huy vai trò chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, nhất là sự chỉ đạo quyết liệt của người đứng đầu, sự chủ động, trách nhiệm của cơ quan điều hành, thực thi là yếu tố then chốt để đạt kết quả Chương trình. Khắc phục cho được tâm lý sợ sai, né tránh, đùn đẩy, sợ trách nhiệm;

(3) Phát huy vai trò chủ thể, sáng tạo của Nhân dân, tính gương mẫu của cán bộ, đảng viên và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, nhất là người dân, đối tượng thụ hưởng Chương trình. Đây là yêu tố then chốt để quyết định sự thành công, hiệu quả của các Chương trình mục tiêu;

(4) Để có chính sách phù hợp với đặc thù từng vùng, miền, Quốc hội, Chính phủ cần tiếp tục đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương trong việc lựa chọn, quyết định các danh mục dự án, tiểu dự án cụ thể. Các cơ quan Trung ương ban hành chính sách khung, giao chỉ tiêu cụ thể cho địa phương và xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát, đánh giá phù hợp, hiệu quả.

4.1. Đối với Quốc hội

Chỉ đạo Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, đoàn đại biểu quốc hội theo chức năng nhiệm vụ tăng cường giám sát việc triển khai thực hiện các Chương trình Mục tiêu quốc gia ở các cấp.  Cân đối, bố trí đủ ngân sách theo đúng các Nghị quyết của Quốc hội để thực hiện có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia.

Đối với các kiến nghị của Chính phủ: Quốc hội thảo luận, cho phép đưa vào Nghị quyết giám sát để Chính phủ và các địa phương thực hiện cơ chế đặc thù các nội dung: (1) Giao cho Ủy ban Nhân dân quyết định trình tự, thủ tục, tiêu chí, mẫu hồ sơ lựa chọn dự án, mô hình hỗ trợ phát triển sản xuất; (2) Giao cho chủ trì liên kết, cộng đồng tự quyết định phướng thức mua sắm (có thể không qua đấu thầu); tài sản hình thành sau đầu tư bàn giao cho cộng đồng và chủ trì liên kết (nếu có nhu cầu); (3) Giao cho Hội đồng Nhân dân tỉnh quyết định danh mục, dự án, công trình quy mô nhỏ, kỹ thuật không phức tạp; (4) Giao dự toán kinh phí sự nghiệp nguồn ngân sách trung ương hàng năm theo chương trình, phân cấp cho địa phương quyết định lựa chọn danh mục dự án, chính sách cụ thể; (5) Cho phép địa phương thực hiện cơ chế ủy thác nguồn vốn ngân sách Nhà nước qua hệ thống ngân hàng để hỗ trợ thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia; (6) Cho phép kéo dài vốn năm 2023 chưa giải ngân hết sang năm 2024; (7) giao Chính xây dựng cơ chế, giải pháp để triển khai Nghị quyết số 100/2023/QH15 tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV về thí điểm phân cấp quản lý, lồng ghép, quyết định danh mục đầu tư cho cấp huyện, trình Quốc hội vào thời điểm thích hợp.

Thời gian thực hiện cơ chế thí điểm đến hết năm 2025, giao Chính phủ xây dựng cơ chế quản lý đảm bảo thực hiện hiệu quả, đúng mục tiêu do Quốc hội giao về chủ trương đầu tư các Chương trình mục tiêu quốc gia.

Quốc hội giám sát tối cao việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về ba Chương trình mục tiêu quốc gia.

4.1. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ ngành liên quan

Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành liên quan hoàn thành trong năm 2023:  Sửa đổi, bổ sung những cơ chế, chính sách chưa phù hợp, khó thực hiện thuộc thẩm quyền của Chính phủ để triển khai đầy đủ cơ chế, nguyên tắc, nội dung chính sách trong các Nghị quyết của Quốc hội về phê duyệt Chủ trương đầu tư thực hiện các Chương trình; đề xuất giải pháp để triển khai Nghị quyết số 100/2023/QH15 tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV về thí điểm phân cấp quản lý, lồng ghép, quyết định các danh mục đầu tư cho cấp huyện; rà soát, sửa đổi, bổ sung các tiêu chí, chỉ tiêu trong bộ tiêu chí nông thôn mới cho phù hợp với tình hình thực tiễn.

Rà soát, kiến nghị cấp có thẩm quyền xử lý sớm vốn tồn đọng do giải ngân chậm; có cơ chế đặc thù về vốn thực hiện các Chương trình cho các tỉnh khó khăn miền núi; tăng nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội cho Ngân hàng Chính sách xã hội để tăng mức vay hỗ trợ giảm nghèo, nhất là vay vốn xây dựng, sửa chữa nhà ở cho người nghèo, cận nghèo trên địa bàn nông thôn.

Tập trung giải quyết dứt điểm những khó khăn, bức xúc về đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, quy hoạch sắp xếp ổn định dân cư ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; bổ sung chính sách để giải quyết những bất cập khi triển khai thực hiện Quyết định số 861/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và địa bàn các xã đã công nhận đạt chuẩn nông thôn mới. Rà soát đánh giá các chính sách xã hội hỗ trợ cho các xã diện đặc biệt khó khăn, huyện nghèo, hộ nghèo, cận nghèo vùng dân tộc thiểu số, các đối tượng yếu thế; đánh giá việc thực hiện các chương trình, chính sách đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho đồng bào dân tộc thiểu số, nông thôn, vùng miền núi, trên cơ sở đó có giải chính sách phù hợp;  bổ sung giải pháp bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội ở nông thôn.

Ban hành chính sách hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo khu vực nông thôn giai đoạn 2021-2025; chính sách bảo trợ xã hội đối với hộ nghèo không có khả năng lao động theo tinh thần Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 23/6/2021 của Ban Bí thư về tăng cường lãnh đạo của Đảng với công tác giảm nghèo bền vững; giao chỉ tiêu thực hiện các mục tiêu giảm nghèo, thoát nghèo đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; đối với các xã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới cần đảm bảo, bền vững chất lượng cuộc sống, sinh kế, thu nhập của người dân được nâng lên, không bị rơi vào tái nghèo, cận nghèo.

Cần tập trung giải quyết dứt điểm những khó khăn, bức xúc về đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt, quy hoạch sắp xếp ổn định dân cư ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Thiết lập hệ thống đánh giá, giám sát, báo cáo phù hợp; chỉ đạo công tác theo dõi, đánh giá tiến độ triển khai và kết quả thực hiện đến từng dự án/tiểu dự án thống nhất từ trung ương đến địa phương; xây dựng trang thông tin điện tử để trao đổi, phản hồi nhanh, kịp thời, công khai, minh bạch kết quả thực hiện các Chương trình tại từng địa phương; số hóa, xây dựng tài liệu hướng dẫn thực hiện các Chương trình.

Chỉ đạo nghiên cứu, định hướng xây dựng nội dung, cơ cấu, chính sách các Chương trình mục tiêu quóc gia chuẩn bị điều kiện để thực hiện cho giai đoạn 2026-2031.

 Các bộ, ngành liên quan theo chức năng, nhiệm vụ, rà soát, kiến nghị cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung các các văn bản quản lý, hướng dẫn cho phù hợp; đề xuất điều chỉnh các chính sách còn bất cập, bổ sung các chính sách cần thiết.

4.3. Đối với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội và các địa phương

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong việc vận động sự tham gia của xã hội và cộng đồng dân cư tham gia giám sát, phản biện xã hội và thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia, quan tâm giúp đỡ các hộ nghèo, hộ cận nghèo, nhất là ở địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi; đẩy mạnh phong trào thi đua “Vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau; và cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”.

Các địa phương: Tăng cường, đổi mới công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành về vai trò, ý nghĩa, nội dung các Chương trình mục tiêu quốc gia; có biện pháp phù hợp để thúc đẩy việc giải ngân nguồn vốn đã được phân bổ; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và kiến nghị cấp có thẩm quyền có biện pháp giải quyết những khó khăn, vướng mắc.  Tăng cường vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp; sự tham gia của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong việc thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia.

Việc Quốc hội giám sát 3 CTMTQG đã đạt được kết quả tích cực, thể hiện trách nhiệm trước Nhân dân, tinh thần đồng hành cùng Chính phủ, tạo nên sự thúc đẩy, chuyển biến mạnh mẽ trong công tác điều hành và tổ chức thực hiện các Chương trình, với kỳ vọng sẽ đạt được những mục tiêu đã đề ra trong thời gian tới./.

                          

TS.Nguyễn Lâm Thành

Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc của Quốc hội