TIẾP TỤC RÀ SOÁT, ĐẢM BẢO DỰ THẢO LUẬT TỔ CHỨC TÒA ÁN NHÂN DÂN (SỬA ĐỔI) ĐỒNG BỘ, THỐNG NHẤT VỚI CÁC LUẬT CÓ LIÊN QUAN

09/11/2023

Chiều 09/11, tại Nhà Quốc hội, thực hiện chương trình Kỳ họp thứ 6, Quốc hội nghe Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Lê Thị Nga trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi). Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành nội dung phiên họp.

TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP CHIỀU 08/11: CHÍNH PHỦ TRÌNH QUỐC HỘI DỰ ÁN LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT ĐẤU GIÁ TÀI SẢN VÀ DỰ ÁN LUẬT CÔNG NGHIỆP QUỐC PHÒNG, AN NINH VÀ ĐỘNG VIÊN CÔNG NGHIỆP

Trình bày báo cáo thẩm tra Dự án Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga nêu rõ, Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành sự cần thiết sửa đổi Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (TAND) năm 2014 nhằm đẩy mạnh cải cách tư pháp, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Dự thảo Luật phù hợp với các nghị quyết, văn kiện của Đảng; bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp và cơ bản tương thích với các điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.

Để bảo đảm tính thống nhất của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật, Ủy ban Tư pháp đề nghị Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) tiếp tục rà soát các luật có liên quan, nhất là các luật trong lĩnh vực tư pháp và đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Hồ sơ dự án Luật đã được TANDTC chuẩn bị công phu, cơ bản đáp ứng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, thảo luận.

Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga

Về nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp (khoản 1 Điều 3), đa số ý kiến Ủy ban Tư pháp tán thành cần quy định nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp trong dự thảo Luật, với lý do: Hiến pháp năm 2013 quy định: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”, nhưng từ đó đến nay nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp chưa được cụ thể hóa nên chưa được hiểu thống nhất. Quy định nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp để thể chế hóa Nghị quyết 27 và cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013.

Tuy nhiên, Ủy ban Tư pháp đề nghị Cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát khoản 1 Điều 3 dự thảo Luật để quy định đầy đủ, cụ thể nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp, bảo đảm sự liên thông, kết nối với các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án tại khoản 2 Điều 3 dự thảo Luật.

Một số ý kiến cho rằng, Luật Tổ chức Quốc hội và Luật Tổ chức Chính phủ không quy định nội dung quyền lập pháp, quyền hành pháp. Khi xây dựng và ban hành Nghị quyết 27, Ban Chấp hành Trung ương Đảng không đưa nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp vào Nghị quyết. Việc làm rõ nội dung Tòa án thực hiện quyền tư pháp là vấn đề lớn, phức tạp, có liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của TAND và các cơ quan tư pháp khác nhưng vẫn chưa có sự thống nhất cao. Do đó, Ủy ban Tư pháp đề nghị không quy định nội dung này trong dự thảo Luật, mà cần xác định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Tòa án để quy định cho phù hợp và có cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả.

Về điều chỉnh nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ (Điều 15), Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành với dự thảo Luật, theo đó: Đối với vụ án hình sự: việc khởi tố, điều tra, truy tố thuộc trách nhiệm của Cơ quan điều tra (CQĐT) và Viện kiểm sát (VKS). Tòa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ do CQĐT và VKS thu thập trong hồ sơ vụ án, sau khi đã kiểm tra, làm rõ tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa để ra phán quyết về vụ án; nếu thiếu chứng cứ hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm... thì Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Đối với vụ việc dân sự, vụ án hành chính: nghĩa vụ thu thập chứng cứ (TTCC) và chứng minh thuộc về đương sự. Tòa án không có trách nhiệm TTCC mà chỉ hướng dẫn, yêu cầu các đương sự TTCC; nếu đương sự là người yếu thế trong xã hội thì Tòa án hỗ trợ đương sự TTCC. 

Các đại biểu tại phiên họp

Có ý kiến không tán thành với dự thảo Luật, với lý do: Theo quy định của Bộ luật TTHS, Bộ luật TTDS, Luật Tố tụng hành chính thì Tòa án chỉ tiến hành TTCC trong trường hợp nhất định, phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta. Theo đó: đối với vụ án hình sự nếu tại phiên tòa phát sinh vấn đề cần xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ thì Tòa án tạm ngừng phiên tòa để thực hiện; vụ việc dân sự, vụ án hành chính thì Tòa án chỉ TTCC nếu đương sự không thu thập được và có yêu cầu. Việc TTCC ở nước ngoài thì Tòa án thông qua cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam yêu cầu cơ quan có thẩm quyền nước ngoài thu thập. Nghị quyết 27 yêu cầu: “Nghiên cứu làm rõ… những trường hợp Tòa án thu thập chứng cứ trong hoạt động xét xử”. Do đó, Ủy ban Tư pháp đề nghị quy định những trường hợp Tòa án TTCC để thể chế hóa Nghị quyết 27 và phù hợp với điều kiện của nước ta.

Về Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia (Chương III), Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp nêu rõ, Ủy ban Tư pháp cơ bản tán thành với dự thảo Luật, với lý do: Hiến pháp năm 2013 không quy định về Hội đồng tư pháp quốc gia. Khi xây dựng và ban hành Nghị quyết 27, Ban Chấp hành Trung ương Đảng không đưa nội dung thành lập Hội đồng tư pháp quốc gia vào Nghị quyết. Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia được thành lập theo Luật hiện hành và đã hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Do đó, không cần thành lập Hội đồng tư pháp quốc gia mà giữ nguyên quy định hiện hành; đồng thời nghiên cứu, bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn để Hội đồng này hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, góp phần bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử, phù hợp với thể chế chính trị của nước ta.

Có ý kiến đề nghị thành lập “Hội đồng tư pháp quốc gia” nhằm từng bước “Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử” theo tinh thần của Nghị quyết 27. 

Về việc đổi mới Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện theo thẩm quyền xét xử (khoản 1 Điều 4), đa số ý kiến Ủy ban Tư pháp không tán thành với dự thảo Luật, với lý do: việc “đổi tên gọi” chỉ là vấn đề hình thức, chỉ thay đổi tên gọi mà không thay đổi nội dung; các Tòa án này vẫn gắn với các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp tỉnh và giữ nguyên về thẩm quyền xét xử. Việc thay đổi này dẫn tới không tương thích về tổ chức với các cơ quan tư pháp khác ở địa phương; phải sửa đổi nhiều luật liên quan để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật; phát sinh chi phí tuân thủ. Do đó, Ủy ban Tư pháp đề nghị giữ tên gọi của các Tòa án này như Luật hiện hành đang quy định. 

Một số ý kiến tán thành với dự thảo Luật để thể chế hóa Nghị quyết 27. Việc đổi mới các Tòa án nêu trên khẳng định đúng bản chất để bảo đảm tính độc lập của Tòa án theo thẩm quyền xét xử; quan hệ giữa các Tòa án là quan hệ tố tụng, không phải là quan hệ hành chính và bảo đảm nguyên tắc độc lập giữa các cấp xét xử; việc đổi mới các Tòa án không ảnh hưởng đến sự lãnh đạo của Đảng, giám sát của cơ quan dân cử và sự phối hợp công tác với cơ quan tư pháp cùng cấp.

Minh Hùng