TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP SÁNG 07/11: TIẾP TỤC PHIÊN CHẤT VẤN VÀ TRẢ LỜI CHẤT VẤN
GÓC NHÌN CHUYÊN GIA: NHÌN LẠI VIỆC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA QUỐC HỘI VỀ GIÁM SÁT CHUYÊN ĐỀ, CHẤT VẤN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC
GÓC NHÌN CHUYÊN GIA: ĐỂ NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM ''CẤT CÁNH''
Chúng ta đã gần đi qua năm 2023, một năm đầy khó khăn, nhiều thách thức và áp lực. Nhưng đây cũng là giai đoạn cho thấy sự nỗ lực rất lớn của Quốc hội, Chính phủ và bộ máy chính quyền các cấp và cộng đồng doanh nghiệp.
Có lẽ thành công lớn nhất và quan trọng nhất khi nói về năm 2023 đó là duy trì được tình hình kinh tế vĩ mô ổn định. Tốc độ tăng trưởng ở mức khá, lạm phát thấp, tỷ giá được kiểm soát tốt, các cân đối vĩ mô của nền kinh tế được giữ vững có lẽ là một thành công lớn của năm 2023 khi thế giới có quá nhiều biến động. Nhìn sang các nước lạm phát cao đã ảnh hưởng cực lớn tới người dân. Chính điều này đã tạo ra sự tin cậy của cộng đồng nhà đầu tư trong và ngoài nước về triển vọng kinh doanh rất tích cực của Việt Nam trong giai đoạn trung và dài hạn sắp tới.
Năm 2023 là một năm nhiều hứng khởi khi Việt Nam có sự khởi sắc trong hoạt động đối ngoại. Cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam đánh giá rất cao về chính sách đối ngoại của Việt Nam, đặc biệt là việc Việt Nam đã nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ lên quan hệ đối tác chiến lược toàn diện. Chúng ta cũng tiếp tục nâng cao hơn nữa quan hệ với Trung Quốc. Đây đều là những cường quốc của thế giới và là những thị trường làm ăn quan trọng. Việt Nam đã ký kết và đang triển khai đến 16 hiệp định thương mại tự do. Có lẽ ít có quốc gia nào như Việt Nam khi doanh nghiệp có thể làm ăn, dễ dàng xuất khẩu sản phẩm của mình sang cả Châu Âu, các nước Đông Bắc Á, Trung Quốc, Nga…
Tuy nhiên, 2023 không phải là năm dễ dàng, đây là năm mà có tỷ lệ doanh nghiệp rời khỏi thị trường rất cao, xuất nhập khẩu giảm, sản xuất công nghiệp có chiều hướng giảm. 10 tháng đầu năm 2023 có đến 146,6 nghìn doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường, tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. Cũng trong 10 tháng đầu năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa đạt 557,95 tỷ USD, giảm 9,6% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp trong 10 tháng năm 2023 ước chỉ tăng 0,5% so với năm trước. Tất nhiên điều này có yếu tố khách quan quan trọng từ tình hình kinh tế thế giới khó khăn nhưng cũng có cả những yếu tố nội tại, những yếu tố chủ quan trong nước, chưa tăng tốc trong việc tháo gỡ các khó khăn vướng mắc hay ban hành kịp các chính sách hỗ trợ. Điểm tích cực là dù rất tiêu cực những tháng đầu năm nhưng tình hình đã dần tốt hơn, tháng sau tốt hơn tháng trước, quý sau đã tốt hơn quý trước.
Dù 2023 báo hiệu một năm rất thành công trong thu hút đầu tư nước ngoài nhưng cũng đã tiềm ẩn nhiều tín hiệu đang lo ngại. Điểm nổi bật là tình hình thiếu điện vào tháng 5-6/2023 ở miền Bắc của Việt Nam. Đây là hiện tượng mới của năm nay so với nhiều năm trước. Việc thiếu nguồn điện đã dẫn tới tình trạng cắt điện các nhà máy, các khu công nghiệp và cơ sở sản xuất tại khu vực phía Bắc. Điều này tạo ra thiệt hại lớn cho các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp sản xuất và gây ra tâm lý lo ngại của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài nhiều nguyên nhân khách quan cũng có nguyên nhân từ việc vận hành nguồn cung điện. Để Việt Nam thu hút được mạnh mẽ hơn nữa các dự án đầu tư đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, công nghệ cao trong giai đoạn sắp tới thì chắc chắn cần phải khắc phục được điều này. Hiện tại Chính phủ và Bộ Công thương đã tính toán và có kế hoạch giải quyết vấn đề quan trọng này trong những tháng cuối năm 2023 và năm 2024 tới.
Kinh tế Việt Nam 10 tháng năm 2023. Nguồn: Tổng cục Thống kê
Cũng liên quan đến các dự án đầu tư mới có một vấn đề hết sức quan trọng là việc hoàn thành quy hoạch cấp tỉnh còn rất khiêm tốn. Hiện nay dù các địa phương và bộ ngành liên quan đã rất cố gắng nhưng tiến độ lập và thông qua quy hoạch tích hợp cấp tỉnh còn quá chậm. Con số địa phương đã hoàn thành quy hoạch tính tới hết tháng 10 năm 2023 vẫn dưới con số 20 (trên 63 tỉnh, thành phố). Việc chậm trễ thông qua quy hoạch cấp tỉnh, nhất là các thành phố lớn và trung tâm kinh tế, cùng nhiều quy hoạch quan trọng khác đã tạo ra nhiều vướng mắc, gây ra đình trệ cho các dự án đầu tư trên thực tế. Chắc chắn là để tạo ra động lực phát triển mạnh mẽ cần có các giải pháp để đẩy nhanh hơn nữa việc thông qua các quy hoạch cấp tỉnh, đặc biệt là ở các trung tâm kinh tế lớn.
Trong năm 2023 đã có một số vấn đề nóng ảnh hưởng lớn đến cộng đồng doanh nghiệp và hoạt động đầu tư, kinh doanh. Vấn đề tiêu chuẩn phòng cháy chữa cháy khiến rất nhiều dự án đầu tư, công trình xây dựng bị chậm trễ, phát sinh nhiều chi phí. Trong thời gian qua đã có một số vụ việc cháy gây hậu quả nghiêm trọng đến tính mạng và tài sản của người dân. Nhưng một số tiêu chuẩn về phòng cháy chữa cháy quá cao và cách áp dụng hồi tố và cứng nhắc tạo ra ách tắc và khó khăn trên thực tế. Thứ hai khá nổi bật là vấn đề hoàn thuế VAT chậm trễ khiến các doanh nghiệp nhiều ngành như gỗ, cao su, sắn, điện tử… gặp nhiều khó khăn, chật vật thiếu dòng tiền. Chính phủ đã có những chỉ đạo để giải quyết các vấn đề nêu trên. Quốc hội cũng đã vào cuộc giám sát tình hình thực tế. Thời gian tới rất cần phân tích rõ nguyên nhân và có các giải pháp để không để xảy ra tình trạng này. Trong đó đặc biệt là các giải pháp sửa đổi các văn bản pháp luật để tạo thuận lợi cho bộ máy thực thi các cấp, giảm rủi ro.
Trong thời gian tới để tiếp tục tăng sức cạnh tranh của môi trường kinh doanh Việt Nam thì cần phải tiến hành nhiều giải pháp như tiếp tục nâng cao chất lượng hạ tầng, chất lượng nhân lực, thúc đẩy sản xuất công nghiệp nội địa… trong đó theo tôi cần tập trung vào 2 nhóm giải pháp chính: 1) Các giải pháp giảm chi phí kinh doanh và 2) Cải cách chất lượng quy định pháp luật và thực thi pháp luật.
Các doanh nghiệp phản ánh chi phí kinh doanh tại Việt Nam hiện nay cao và xu hướng tăng, nằm ở 4 nhóm chính: (1) các chi phí có liên quan đến lao động; (2) chi phí tài chính cho Nhà nước ngoài thuế; (3) chi phí vốn; (4) chi phí vận tải, logistics.
Thứ nhất, chi phí liên quan lao động được chia thành 2 nhóm: (a) chi phí nằm trong sự thoả thuận giữa hai bên; (b) chi phí không nằm trong thoả thuận giữa hai bên mà buộc phải chi do quy định của pháp luật. Đối với khoản chi đầu tiên, các doanh nghiệp sẵn sàng chi trả nhiều hơn để có được chất lượng và số lượng người lao động tốt hơn trên thị trường. Tuy nhiên, các khoản bắt buộc theo quy định của pháp luật Việt Nam tương đối cao, gồm bảo hiểm xã hội, kinh phí công đoàn.
Theo quy định hiện tại của Việt Nam, người sử dụng lao động có trách nhiệm đóng bảo hiểm xã hội (BHXH) và các khoản quỹ bắt buộc khác với tổng là 17% mức lương tháng của người lao động. Tỷ lệ đóng này cộng tính thêm phần đóng của người lao động là 25%, cộng thêm các khoản bảo hiểm y tế và các khoản khác đã lên đến 32%. Đây là mức đóng BHXH cao nếu so với một số quốc gia trong khu vực như Malaysia cao nhất là 13%, Indonesia từ khoảng 10 - 12%, Philippines là 8% và Thái Lan là 5%...
Mức lương tối thiểu tại Việt Nam cũng có xu hướng tăng mạnh trong nhiều năm trở lại nay. Lương tối thiểu của Bangladesh là 74,8 USD/người/tháng. Trong khi của Việt Nam là 198,5USD/người/tháng. Kinh phí công đoàn 2% quỹ tiền lương là gánh nặng riêng có của doanh nghiệp đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Với mức chi phí bắt buộc lao động cao như vậy làm giảm tính cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam, làm chúng ta khó thu hút vốn đầu tư để tạo việc làm cho hàng triệu người đến tuổi lao động mỗi năm.
Thứ hai, chi phí vốn của doanh nghiệp Việt Nam rất cao. Từ cuối 2022 cho đến đầu năm 2023, lãi suất của Việt Nam có biến động tăng mạnh, dù hiện nay đã có chiều hướng giảm khá nhanh. Tuy nhiên, đó là lãi suất ngắn hạn, còn về dài hạn lãi suất trung bình của đồng tiền Việt Nam luôn cao hơn vài điểm phần trăm so với lãi suất của các đồng tiền khác trong khu vực. Điều này xuất phát từ rủi ro kinh doanh tại Việt Nam vẫn cao, an ninh tài chính tiền tệ mặc dù được cải thiện nhưng vẫn kém so với các nước xung quanh, xếp hạng tín nhiệm quốc gia vẫn còn thấp.
Ví dụ, theo Moody, xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam đã tăng ba bậc, từ mức B2 năm 2012 lên mức Ba2 năm 2022. Đây là kết quả tốt giúp hạ lãi suất dài hạn của tiền đồng. Tuy nhiên, nếu so sánh với các quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Indonesia, Philippines, Malaysia, thì xếp hạng tín nhiệm của Việt Nam vẫn còn thua nhiều bậc (Thái Lan - Baa1; Indonesia - Baa2; Philippines - Baa2; Malaysia - A3). Điều này đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư sẽ yêu cầu lãi suất cao hơn hoặc lợi nhuận cao hơn khi đầu tư vào Việt Nam. Chi phí vốn cao như vậy khiến các ngành cần nhiều vốn như sản xuất công nghiệp khó có thể đưa ra sản phẩm cạnh tranh được với thế giới.
Cản trở lớn nhất để giảm lãi suất dài hạn, nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia chủ yếu hiện nằm ở sự thiếu minh bạch về tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước và khả năng khó dự đoán của chính sách. Các doanh nghiệp Nhà nước phải đồng thời làm nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm vụ xã hội, các trách nhiệm giải trình (quan hệ cổ đông, kiểm toán, xếp hạng tín nhiệm) cũng thường thấp hơn các doanh nghiệp tư nhân có cùng quy mô. Do đó, việc nâng cao năng lực quản trị các doanh nghiệp nhà nước, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế cần được khẩn trương thực hiện. Ví dụ, yêu cầu các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô lớn phải thực hiện xếp hạng tín nhiệm.
Thứ ba, ngoài các khoản thuế, các doanh nghiệp Việt Nam tuỳ từng ngành hàng còn phải nộp thêm các khoản tài chính ngoài ngân sách, điều này cũng khiến doanh nghiệp bị đội chi phí kinh doanh. Có tình trạng các bộ ngành khi được giao chủ trì soạn thảo pháp luật của bộ ngành mình thì cố gắng bổ sung các loại phí, các khoản thu vào quỹ do mình quản lý. Ví dụ, Quỹ phòng chống rủi ro thiên tai, Quỹ Bảo vệ môi trường, Quỹ bình ổn giá xăng dầu, Quỹ bảo trì đường bộ… Đó là chưa kể các khoản vận động, đóng góp từ cơ quan, chính quyền, đoàn thể địa phương mà doanh nghiệp khó có thể chối từ.
Thứ tư, chi phí vận tải và logistics của Việt Nam vẫn cao do hệ thống hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, hoàn thiện, mức độ kết nối giao thông chưa tốt. Việc triển khai các dự án giao thông lớn, trọng điểm gặp nhiều vướng mắc và thường xuyên chậm trễ. Mặc dù Chính phủ rất nỗ lực trong việc hoàn thiện cơ sở hạ tầng giao thông quốc gia, song tình trạng chi phí vận tải cao vẫn sẽ kéo dài trong nhiều năm nữa, đặc biệt là ở khu vực miền Nam.
Tình trạng này có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân căn bản là cơ chế tài chính dành cho đầu tư hạ tầng của Việt Nam vẫn chậm đổi mới. Đề án lấy cao tốc, nuôi cao tốc chậm được ban hành, triển khai khiến các dự án thiếu vốn. Các cơ chế nhượng quyền khai thác hạ tầng theo Luật Quản lý tài sản công, hợp đồng O&M vận hành và quản lý vẫn còn vướng mắc, các dự án PPP giao thông gặp ách tắc…
Chi phí vận tải và logistics của Việt Nam vẫn cao do hệ thống hạ tầng giao thông chưa đồng bộ, hoàn thiện. (ảnh minh họa)
Rào cản về chi phí kinh doanh cao này làm giảm tính cạnh tranh và khả năng tích luỹ vốn của nền kinh tế Việt Nam so với các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là khả năng thu hút vốn đầu tư, khả năng tạo việc làm của nền kinh tế. Ví dụ lĩnh vực dệt may, Việt Nam đang bị Bangladesh vượt qua rất nhanh. Một trong những lý do vì hàng hoá của Bangladesh rẻ hơn, chi phí nhân công của họ thấp hơn, gồm cả lương tối thiểu và các khoản phải đóng khác.
Các chi phí cao này khiến Việt Nam có nguy cơ bị mất đơn hàng cho các quốc gia khác. Doanh nghiệp không đầu tư mới, tình trạng các doanh nghiệp phải cắt giảm lao động tăng lên. Kết quả là chúng ta phải lo xử lý một bộ phận lớn người lao động mất việc làm, và việc này còn khó khăn hơn rất nhiều so với việc bảo đảm đời sống của những người lao động có việc làm.
Nền kinh tế Việt Nam vẫn thiếu vốn, chúng ta cần cạnh tranh thu hút vốn, nhưng nếu các chi phí lao động quá cao thì dòng vốn sẽ không chảy vào nước ta. Trong bối cảnh các chính sách thu hút đầu tư mà Việt Nam áp dụng từ trước đến nay như ưu đãi thuế đang bị chặn lại do chính sách thuế tối thiểu toàn cầu, thì việc thu hút vốn để tạo đủ việc làm cho nền kinh tế vẫn phải là mục tiêu hàng đầu.
Năm 2023 cũng như nhiều năm trước, việc hoàn thiện thể chế và tăng cường chất lượng các văn bản quy phạm pháp luật là vấn đề được Quốc hội và Chính phủ rất quan tâm. Trong năm 2023, nhiều đạo luật lớn đang được sửa đổi như Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Tổ chức tín dụng…
Thời gian qua nổi lên vấn đề lạm dụng ban hành Thông tư, ban hành Quy chuẩn kỹ thuật. Các doanh nghiệp phản ánh tình trạng chất lượng các Quy chuẩn kỹ thuật tương đối thấp, thể hiện ở một số vấn đề. Thứ nhất, quy chuẩn của Việt Nam có yêu cầu cao hơn cả quy chuẩn của những nước phát triển, như quy chuẩn về chất ô nhiễm trong thực phẩm bảo vệ sức khoẻ. Thứ hai, quy chuẩn có chi phí tuân thủ rất cao, vượt quá khả năng của nhiều doanh nghiệp như Quy chuẩn 06 về phòng cháy chữa cháy. Hiện nay, từ ý kiến của các doanh nghiệp và chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Xây dựng đã từng bước giảm dần các yêu cầu của Quy chuẩn 06 trong năm 2022 và đang dự thảo tiếp tục giảm trong năm 2023. Thứ ba, có quy chuẩn ban hành xong, đến thời điểm áp dụng rồi mà chưa chỉ định các phòng thử nghiệm trong nước đủ năng lực. Điều này khiến hàng hoá bị tắc nghẽn như một số Quy chuẩn về thiết bị 5G. Thứ tư, có tình trạng lạm dụng ban hành quy chuẩn và đưa vào danh mục hàng hoá nhóm 2 các loại hàng hoá không có khả năng gây mất an toàn như Quy chuẩn 20 của Bộ Khoa học và Công nghệ về thép không gỉ.
Các doanh nghiệp đề nghị một số giải pháp cần làm để nâng cao chất lượng pháp luật và tính dự đoán của pháp luật. Thứ nhất, tăng cường tham vấn, lấy ý kiến, đặc biệt đối với các Thông tư, các quy hoạch, kế hoạch. Thứ hai, nguyên tắc không hồi tố phải được áp dụng rộng rãi hơn, đặc biệt là với dự án đầu tư và công trình xây dựng đã được bắt đầu trước khi có quy định mới. Thứ ba, các quy định theo hướng tăng nặng nghĩa vụ của doanh nghiệp cần có lộ trình thực hiện kéo dài hơn, thay vì mức chỉ 45 ngày như quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Thứ tư, bãi bỏ dần các quy định về thời hạn của các loại giấy phép con, vì nếu doanh nghiệp vi phạm thì đã có biện pháp tước giấy phép. Thứ năm, áp dụng quản lý rủi ro trong thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp để giảm sự tuỳ tiện khi thi hành pháp luật.
Chất lượng pháp luật rất quan trọng nhưng đi kèm với đó là phải đảm bảo việc thực thi pháp luật. Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng hiện nay.
Khảo sát doanh nghiệp hàng năm về Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI của VCCI cho thấy, tính ổn định và khả năng dự đoán được pháp luật của Việt Nam tương đối thấp, trong cả giai đoạn ban hành pháp luật và thực thi pháp luật. Tỷ lệ doanh nghiệp “luôn luôn” hoặc “thường xuyên” dự đoán được sự thay đổi quy định pháp luật của chính quyền cấp tỉnh giảm từ mức 16% năm 2014 xuống mức 5% năm 2021 và 3,42% năm 2022. Doanh nghiệp càng nhỏ, khả năng dự đoán sự thay đổi pháp luật càng thấp. Kết quả khảo sát cũng cho thấy, khả năng dự đoán việc áp dụng pháp luật của cơ quan chính quyền cũng thấp. Tỷ lệ doanh nghiệp cho biết họ có thể dự đoán được việc thực hiện quy định chỉ ở mức 3,48% năm 2022. Doanh nghiệp càng nhỏ, khả năng dự đoán áp dụng pháp luật càng thấp.
Điều nổi bật trong giai đoạn vừa qua là tình trạng đội ngũ cán bộ các cấp có xu hướng sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám quyết định, né tránh làm việc. Do vậy, thời gian tới phải loại bỏ được tâm lý này, tạo ra tâm lý an toàn, hình thành nên động lực làm việc cho bộ máy các cấp là điều rất quan trọng./.
|
Ông Đậu Anh Tuấn
Phó Tổng Thư ký, Trưởng Ban Pháp chế VCCI
Thành viên Hội đồng khoa học của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
|