Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám và sự ra đời của bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam – kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo đã kế thừa những giá trị truyền thống hết sức quý báu của dân tộc được thể hiện tiêu biểu trong những áng thiên cổ hùng văn như Nam quốc sơn hà, Đại cáo bình ngô… đồng thời nâng lên tầm cao mới. Bản Tuyên ngôn Độc lập có chỉ hơn 1.000 từ nhưng chứa đựng nhiều nội dung có giá trị hết sức sâu sắc và mang ý nghĩa lâu dài, không chỉ đối với dân tộc Việt Nam, mà cả với nhân loại tiến bộ.
Trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 02/9/1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã trích Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ để khẳng định về một nước Việt Nam độc lập, bình đẳng với các dân tộc khác, khát vọng tự cường và là bạn bè với các quốc gia khác. Kế thừa những thành tựu của văn minh nhân loại, Tuyên ngôn Độc lập đã tiếp cận quyền dân tộc từ quyền con người, thể hiện trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Trên cơ sở khẳng định quyền tự nhiên, cơ bản của con người, Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định các dân tộc có quyền được hưởng độc lập, tự do và hạnh phúc, đây là quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc. Đồng thời khẳng định quyền bình đẳng của các dân tộc phải được công nhận trên cơ sở tôn trọng các giá trị và nguyên tắc tiến bộ của nhân loại.
Trong phiên họp của Kỳ họp thứ 11, Quốc hội Khóa I, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp năm 1946
Tuyên ngôn Độc lập là văn bản pháp lý đầu tiên tạo cơ sở cho việc thiết lập Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Đặc trưng cơ bản nhất của nhà nước pháp quyền là quản lý xã hội bằng pháp luật. Việc xây dựng hệ thống pháp luật toàn diện để quản lý xã hội là điều quan trọng nhất, mà trước hết là phải ban hành Hiến pháp - đạo luật gốc. Từ nhận thức sâu sắc đó, khi nước nhà vừa giành được độc lập, Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định ngay việc thoát ly hẳn chế độ quân chủ, thiết lập chế độ dân chủ cộng hòa.
Ngay sau khi giành được chính quyền và sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập vào ngày 2/9/1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Ngày 3/9/1945, Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách, trong đó có nhiệm vụ xây dựng tổ chức nhà nước, tổ chức tổng tuyển cử bầu Quốc hội để ấn định cho Việt Nam một Hiến pháp. Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị với Chính phủ: “Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ chuyên chế cai trị, rồi đến chế độ thực dân không kém phần chuyên chế, nên nước ta không có hiến pháp. Nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu. Tất cả công dân trai gái mười tám tuổi đều có quyền ứng cử và bầu cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống v.v...” Lời đề nghị của Người có ý nghĩa như một tuyên bố lập hiến của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Ngày 20/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 34, thành lập Ủy ban Dự thảo Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trong nhiều phiên họp của Ủy ban Dự thảo Hiến pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên và đề nghị đưa quan điểm “lấy dân làm gốc” vào bản Hiến pháp với những điều luật ngang tầm với nền chính trị và pháp luật tiên tiến của thế giới lúc bấy giờ và có những điều còn có giá trị vượt thời gian cho đến hôm nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm việc tại Bắc Bộ Phủ năm 1946 (Ảnh: Tư liệu)
Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử (6/1/1946) và Kỳ họp thứ Nhất của Quốc hội (2/3/1946) là một bước phát triển về thể chế dân chủ của nước Việt Nam mới; một nhà nước pháp quyền của dân tộc, do dân tộc và vì dân tộc. Chính phủ có đầy đủ uy tín và hiệu lực pháp lý để điều hành đất nước, đã triển khai mọi hoạt động trên tất cả các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, giáo dục, văn hoá, xã hội vì lợi ích tối cao của toàn dân tộc là độc lập, tự do, sớm mang lại hạnh phúc thực tế cho mọi người dân trong điều kiện đất nước đang gặp muôn vàn khó khăn. Đó là một kỳ tích của chế độ dân chủ cộng hoà Việt Nam, là sức mạnh để giữ vững chính quyền cách mạng, để kháng chiến và kiến quốc.
Ngày 9/11/1946, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hiến pháp năm 1946 phản ánh rõ rệt thắng lợi của cuộc đấu tranh dân tộc và dân chủ lâu dài, gian khổ, hy sinh của dân tộc Việt Nam, trực tiếp là thắng lợi của cuộc Cách mạng giải phóng dân tộc tháng Tám 1945.
Tuyên ngôn Độc lập, Tổng tuyển cử, và Hiến pháp năm 1946 có quan hệ mật thiết với nhau. Tuyên ngôn Độc lập đã tạo cơ sở pháp lý nền tảng cho việc tổ chức cuộc Tổng tuyển cử và sự ra đời của bản Hiến pháp 1946. Đến lượt mình, Hiến pháp năm 1946 ra đời đã thể chế hóa thành hiến pháp tất cả những nội dung cốt lõi của Tuyên ngôn Độc lập, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho những điều mà Tuyên ngôn đã tuyên bố - những thành quả vĩ đại mà Cách mạng Tháng Tám đã mang lại cho nhân dân Việt Nam. Về mặt pháp lý, Hiến pháp năm 1946 là sự khẳng định mạnh mẽ về mặt chủ quyền quốc gia của Nhân dân Việt Nam, ghi nhận thành quả vĩ đại của Nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giành lại độc lập, tự do cho dân tộc và thống nhất lãnh thổ. Hiến pháp năm 1946 đã đề ra những nhiệm vụ cơ bản của Nhà nước và nhân dân ta trong giai đoạn trước mắt; đặt nền móng cho một bộ máy nhà nước kiểu mới. Đồng thời công nhận, đảm bảo quyền dân chủ thiêng liêng của công dân, phù hợp với tình hình, đặc điểm cách mạng Việt Nam và xu hướng tiến bộ, văn minh trên thế giới.
Tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp năm 2013
Điều nổi bật hàng đầu của Hiến pháp đã khẳng định quyền dân tộc độc lập, chủ quyền, thống nhất lãnh thổ của nước Việt Nam. Độc lập dân tộc và tự do của nhân dân là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, là sản phẩm của lịch sử đấu tranh oanh liệt của dân tộc Việt Nam mang tính pháp quyền của nhân loại như tư tưởng về quyền của các dân tộc đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra trong Tuyên ngôn Độc lập. Chính đó là động lực vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do và quyết tâm đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy.
Tư tưởng độc lập cho dân tộc, tự do, dân chủ cho Nhân dân, quyền của con người mà Tuyên ngôn Độc lập đã nêu vẫn còn nguyên giá trị. Hiện nay, trong công cuộc đổi mới, chúng ta đang phấn đấu để xây dựng “Nhà nước pháp quyền của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân”, thực hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, cũng chính là thực hiện và phát triển những tư tưởng của Tuyên ngôn Độc lập. Quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân không chỉ là nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 mà còn gắn liền với việc thiết lập cơ chế bảo đảm thực hiện quyền lực thật sự của Nhân dân, là tư tưởng chỉ đạo bao quát và xuyên suốt đến Hiến pháp năm 2013.
Những tư tưởng pháp quyền trong Hiến pháp năm 1946 là rất dân chủ, tiến bộ và hiện vẫn đang được tiếp tục kế thừa, phát huy trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó có thể kể đến như tư tưởng về một mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước trong Hiến pháp năm 1946. Đó là đề cao vai trò của Nghị viện nhân dân - cơ quan cao nhất của quyền lực Nhà nước, nhấn mạnh vai trò của Nghị viện trong việc giám sát Chính phủ, đề cao tính độc lập của hệ thống Tòa án - cơ quan tư pháp, phân quyền rõ nét và hợp lý cho chính quyền địa phương…
Tuyên ngôn Độc lập và bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp xây dựng. Đó là một trong những tài sản có giá trị tinh thần vô giá của dân tộc ta. Cho đến ngày nay, nhiều giá trị, tư tưởng tiến bộ của nó vẫn tiếp tục được kế thừa và phát huy.
Hiến pháp năm 2013 thể hiện rõ tinh thần đề cao vai trò làm chủ của Nhân dân, phát huy dân chủ và bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được đề cao và đưa lên vị trí trang trọng hàng đầu trong Hiến pháp. Đó vừa là sự kết thừa Hiến pháp năm 1946 do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Trưởng ban soạn thảo vừa thể hiện nhận thức mới trong việc thể chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đề cao nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Hiến pháp năm 2013 cũng là cơ sở để Quốc hội đẩy mạnh công tác lập pháp, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật đáp ứng yêu cầu của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Nhìn lại lịch sử là để hướng tới tương lai. Trong bối cảnh toàn Đảng toàn dân đang tích cực chủ động thực hiện thắng lợi các định hướng, nhiệm vụ trọng tâm và đột phá chiến lược đã xác định tại Đại hội 13 của Đảng về hoàn thiện hệ thống pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đó là: Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì Nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân. Đột phá chiến lược về thể chế để phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của Nhân dân; đồng thời, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ phát biểu kết luận tại Hội nghị trực tuyến toàn quốc triển khai thực hiện Kết luận số 19-KL/TW ngày 14/10/2021 của Bộ Chính trị về định hướng Chương trình Xây dựng pháp luật nhiệm kỳ Quốc hội Khóa XV.
Bên cạnh đó, cả dân tộc Việt Nam đang chủ động hội nhập sâu và rộng với thế giới. Để hội nhập có hiệu quả, Việt Nam phải có các giải pháp về pháp luật vừa bảo đảm phù hợp và phát huy lợi thế, thế mạnh trong nước vừa bảo đảm hài hòa, tương thích với các tiêu chuẩn chung của pháp luật quốc tế. Việt Nam cũng đang hòa nhịp vào dòng chảy của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với khát vọng phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc. Nhiều vấn đề mới sẽ nảy sinh, chưa từng có trong tiền lệ đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của pháp luật để Nhân dân và tổ quốc Việt Nam được hưởng thụ những lợi ích tốt nhất của hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng này đem lại.
Theo Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, để thực hiện thành công các mục tiêu nêu trên, xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian tới, hoạt động lập pháp phải đáp ứng 06 yêu cầu như sau:
Thứ nhất, hoạt động lập pháp phải bảo đảm tạo hành lang pháp lý để Nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Để làm được như vậy, hoạt động lập pháp phải tạo được những bước đột phá thực sự về thể chế để giải quyết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra, rất thiết thực và cụ thể, bảo đảm sự bao phủ của pháp luật đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Hơn nữa, hệ thống pháp luật này phải bảo đảm dân chủ, công bằng mới có thể làm cơ sở để xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tại Kỳ họp thứ Nhất, Quốc hội khóa XV
Thứ hai, hoạt động lập pháp phải bảo đảm việc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, các quyền và tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước và công dân, giữa Nhà nước và xã hội; đảm bảo quyền con người trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội. Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước. Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng các quy định của luật pháp. Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Mô hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân được xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì luật cho phép; đối với công dân được làm tất cả trừ những điều pháp luật cấm.
Thứ ba, hoạt động lập pháp phải bảo đảm quyền lực nhà nước được tổ chức và thực hiện theo các nguyên tắc: phân công, phối hợp quyền lực và kiểm soát quyền lực. Tính chất và cách thức phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước rất đa dạng tùy thuộc vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều có điểm chung là quyền lực nhà nước phải được phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đồng thời, việc tổ chức và thực thi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các cơ chế kiểm soát quyền lực cụ thể kể cả bên trong bộ máy nhà nước và bên ngoài bộ máy nhà nước.
Hội nghị Đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch số 81/KH-UBTVQH15 và triển khai Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh (tháng 8/2022)
Thứ tư, hoạt động lập pháp phải bảo đảm một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật phù hợp. Nền tảng của nhà nước pháp quyền là Hiến pháp và một hệ thống pháp luật dân chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh. Hình thức và phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có thể đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao, bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của Hiến pháp, không phụ thuộc vào chủ thể của các hành vi này. Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, đòi hỏi phải xây dựng và thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch và trong sạch để duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.
Thứ năm, hoạt động lập pháp phải bảo đảm thích ứng với những tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Theo đó, hoạt động lập pháp phải tạo cơ sở pháp lý để tận dụng tối đa những thành tựu, những tác động tích cực của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để đem lại lợi ích cho người dân, doanh nghiệp và xã hội; hạn chế tối đa những tác động tiêu cực của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, bảo vệ người dân, doanh nghiệp và nhà nước trước những hệ lụy có thể xảy ra. Hoạt động lập pháp cũng phải đảm bảo được vai trò của nhà nước trong việc xây dựng hoàn thiện pháp luật để thúc đẩy đổi mới sáng tạo với những tư duy mới, phù hợp với xu thế tiến bộ của thế giới trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ sáu, hoạt động lập pháp phải bảo đảm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đây là nội dung hết sức quan trọng, thể hiện rõ nét nhất đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là phải gắn liền và dựa trên cơ sở đổi mới và chỉnh đốn Đảng. Đảng lãnh đạo nhà nước là đề ra đường lối, chủ trương, chính sách lớn; chăm lo công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, bố trí cán bộ trong các cơ quan Đảng và nhà nước, kiến nghị và giới thiệu cán bộ với các cơ quan dân cử một cách dân chủ; thường xuyên tiến hành công tác kiểm tra. Đảng lãnh đạo nhà nước xây dựng cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của nhà nước, lãnh đạo việc đổi mới bộ máy nhà nước, thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật của nhà nước, cụ thể hóa chiến lược thành chương trình, kế hoạch, cơ chế, chính sách quản lý của nhà nước.