GIÁM SÁT ĐỂ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP

22/08/2023

Uỷ ban thường vụ Quốc hội sẽ thực hiện giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập giai đoạn 2018 - 2023”. Đây là lần đầu tiên Uỷ ban thường vụ Quốc hội tổ chức giám sát vấn đề này sau 16 năm thực hiện Nghị quyết 19/NQ/TW về Đổi mới và đẩy mạnh tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các đơn vị sự nghiệp công lập (ĐVSNCL).

UBTVQH CHO Ý KIẾN KẾ HOẠCH GIÁM SÁT VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VỀ ĐỔI MỚI HỆ THỐNG TỔ CHỨC VÀ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC ĐƠN VỊ SỰ NGHIỆP CÔNG LẬP

Những kết quả bước đầu đạt được khi thực hiện cơ chế tự chủ tại ĐVSNCL

Nghị quyết số 19-NQ/TW đã xác định các mục tiêu tổng quát: Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống các ĐVSNCL, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý, có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo, then chốt trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công; cung ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu, chất lượng ngày càng cao. Giảm mạnh đầu mối, khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải và trùng lắp; tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, viên chức. Giảm mạnh tỉ trọng, nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước cho đơn vị sự nghiệp công lập để cơ cấu lại ngân sách nhà nước, cải cách tiền lương và nâng cao thu nhập cho cán bộ, viên chức trong đơn vị sự nghiệp công lập. Phát triển thị trường dịch vụ sự nghiệp công và thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia phát triển dịch vụ sự nghiệp công. Để thực hiện mục tiêu trên, Nghị quyết đã đề ra 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp cụ thể về đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập theo từng giai đoạn đến năm 2021, 2025 và 2030.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của Nghị quyết, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 24-1-2018 về Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết, trong đó nêu rõ mục đích, yêu cầu, phân công trách nhiệm cụ thể cho các bộ, ngành, địa phương, cơ quan có liên quan triển khai thực hiện và tiến độ hoàn thành. Theo đó, các bộ, ngành, địa phương, cơ quan đã khẩn trương tổ chức các hoạt động tuyên truyền phổ biến, quán triệt nội dung triển khai Nghị quyết tới toàn thể cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động, góp phần tạo chuyển biến mới trong tư duy, nhận thức của các cấp, các ngành, đơn vị và đặc biệt là đội ngũ viên chức, người lao động đối với việc đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của các ĐVSNCL. Đồng thời, các bộ, ngành, địa phương, cơ quan đã ban hành kế hoạch, chương trình hành động để xác định nhiệm vụ, tiến độ thực hiện.

Bộ Nội vụ cho biết, sau 5 năm triển khai đã đạt được một số kết quả, trong đó, hệ thống các văn bản pháp luật quy định về ĐVSNCL từng bước được hoàn thiện. Chính phủ đã trình Quốc hội ban hành 2 luật (Luật số 52/2019/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức; Luật số 34/2018/QH14 ngày 19-11-2018 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học); ban hành theo thẩm quyền các nghị định về vị trí việc làm, biên chế viên chức; về chính sách tinh giản biên chế; về tuyển dụng, sử dụng, quản lý viên chức, hợp đồng lao động; về thành lập, tổ chức lại, giải thể ĐVSNCL; về cơ chế tự chủ tài chính... để các bộ, ngành, địa phương, ĐVSNCL làm căn cứ thực hiện.

Tính đến 31-12-2021, các đầu mối ĐVSNCL của các bộ, ngành, địa phương còn 47.984 đơn vị, giảm 7.420 đơn vị, tương ứng giảm 13,4% so với năm 2015 (55.404 đơn vị), đạt mục tiêu của Nghị quyết trong giai đoạn 2015-2021. Biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước trong các ĐVSNCL do ngân sách nhà nước bảo đảm chi thường xuyên và ĐVSNCL tự bảo đảm một phần chi thường xuyên năm 2021 là 1.789.585 người, giảm 236.366 người (11,7%). Trong đó, bộ, ngành giảm 40.221 người (25,2%); địa phương giảm 196.145 (10,5%), vượt mục tiêu tinh giản biên chế so với năm 2015. Đội ngũ viên chức sau khi sắp xếp, tinh giản biên chế yên tâm công tác, hoàn thành tốt nhiệm vụ, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan, tổ chức; giảm chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Việc giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về tài chính đã giúp các ĐVSNCL chủ động sử dụng các nguồn lực tài chính cho các hoạt động chuyên môn, bố trí hợp lý các khoản chi trong dự toán ngân sách được giao, áp dụng các biện pháp thực hành tiết kiệm, chống lãng phí để có nguồn chi thu nhập tăng thêm cho viên chức, thu hút nhân tài, lao động giỏi làm việc, trích lập quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp để tái đầu tư phát triển, tăng nguồn thu của đơn vị so với giai đoạn trước khi tự chủ, từ đó từng bước giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước.

Thực hiện chính sách xã hội hóa trong các lĩnh vực văn hóa, thể thao, du lịch; giáo dục và đào tạo; y tế... bước đầu đã khai thác, phát huy có hiệu quả, nguồn lực xã hội hóa; đóng góp tích cực vào việc nâng cao chất lượng dịch vụ, tạo sự cạnh tranh, góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Đồng thời, từng bước đáp ứng nhu cầu sử dụng dịch vụ chất lượng cao của người dân và góp phần giảm áp lực, quá tải trong cung cấp dịch vụ công của các ĐVSNCL

Vướng mắc do cơ chế quản lý tài chính còn nhiều bất cập

Thực tiễn cho thấy, việc đổi mới cơ chế tự chủ tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập đã đạt được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, quá trình đổi mới vẫn bộc lộ nhiều vướng mắc, bất cập về cơ sở pháp lý, mô hình tổ chức và cơ chế quản lý tài chính. Việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách và các quy định của pháp luật đối với ĐVSNCL chưa đồng bộ, đầy đủ (về cơ chế quản lý, quy hoạch mạng lưới các ĐVSNCL, định mức kinh tế - kỹ thuật; lộ trình tính đủ giá...), đặc biệt là một số lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn về biên chế sự nghiệp (giáo dục đào tạo, giáo dục nghề nghiệp, y tế). Hệ thống các ĐVSNCL còn cồng kềnh, dàn trải, chưa tinh gọn và chưa phù hợp với thực tiễn.

Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà

Tại phiên trả lời chất vấn tại kỳ họp thứ 5 về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Phạm Thị Thanh Trà cũng thừa nhận, hiện số đơn vị sự nghiệp công lập tự chủ về tài chính, về chi thường xuyên và chi đầu tư đã đạt 6,6%, tự chủ toàn phần đạt 18,7% số các đơn vị sự nghiệp trên cả nước. Số ĐVSNCL tự bảo đảm chi thường xuyên trở lên chỉ chiếm 6,6%.  Điều này cho thấy, việc thực hiện cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của ĐVSNCL, xã hội hóa hoạt động cung ứng dịch vụ sự nghiệp công còn hạn chế, kết quả đạt thấp, thiếu vững chắc.

Từ góc nhìn của kiểm toán nhà nước, Tiến sỹ Lê Đình Thăng, Kiểm toán trưởng chuyên ngành II, Kiểm toán nhà nước phân tích những bất cập còn do mạng lưới đơn vị sự nghiệp công lập trên phạm vi cả nước thiếu quy hoạch tổng thể, Các đơn vị sự nghiệp công lập của các Bộ, cơ quan Trung ương và địa phương được tổ chức với nhiều hình thức khác nhau, cơ chế quản lý không thống nhất, tạo sự bất bình đẳng trong cùng loại hình cung cấp dịch vụ công, phân tán và chồng chéo về nhiệm vụ, hoạt động không hiệu quả, lãng phí nguồn lực. Hệ thống pháp luật còn thiếu và chưa đồng bộ cũng như chưa phù hợp với quá trình vận hành, triển khai chưa hiệu quả. 

Đơn vị sự nghiệp công lập được quy định tại Luật Viên chức. Tuy nhiên, Luật này chỉ mới tiếp cận là đơn vị tuyển dụng, sử dụng và quản lý viên chức. Hay theo quy định tại Luật NSNN, đơn vị sự nghiệp công lập là đối tượng quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công mà chưa được luật hóa dưới hình thức là chủ thể cung cấp dịch vụ công. Các Nghị định về tự chủ đối với đơn vị sự nghiệp công lập, đặt hàng dịch vụ công và nghị định chuyên ngành khác có liên quan đến hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập còn thiếu văn bản hướng dẫn, chưa kịp thời và đầy đủ hoặc có nhiều cách hiểu khác nhau dẫn tới nhiều nội dung của nghị định thiếu tính hiệu lực, không được áp dụng hiệu quả. Mới đây nhất, ngày 16/9/2022, Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 56/2022/TT-BTC hướng dẫn một số nội dung về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập; xử lý tài sản, tài chính khi tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập. Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện lại chưa có cơ sở để đánh giá. 

TS.Lê Đình Thăng, Kiểm toán trưởng KTNN chuyên ngành II

Theo TS.Lê Đình Thăng, điều đáng lưu ý nhất là các đơn vị sự nghiệp công ở các lĩnh vực khác nhau, địa bàn khác nhau, thực hiện nhiệm vụ khác nhau nhưng lại cùng chung một cơ chế giống nhau. Điều này khiến cơ quan quản lý rất khó xử lý và càng tạo ra sự bất bình đẳng khi có những yếu tố bất ngờ như dịch bệnh. Việc xác định mức độ tự chủ chưa phù hợp. Hầu hết các đơn vị được giao quyền tự chủ tài chính nhưng hằng năm vẫn cấp tăng kinh phí chi thường xuyên trong khi đơn vị có nguồn thu tại đơn vị lớn, tồn dư nhiều năm không có nhu cầu sử dụng. Tại nhiều Bộ, ngành, mức độ tự chủ của các đơn vị đều cao hơn so với mức độ tự chủ tính theo dự toán giao, một số đơn vị mức độ tự chủ thực tế cao hơn nhiều so với dự toán.

Cơ chế phân bổ, quản lý, sử dụng NSNN về cơ bản vẫn thực hiện theo yếu tố đầu vào và biên chế được duyệt, chưa gắn với chất lượng sản phẩm, dịch vụ và các yếu tố đầu ra khác. Nhiều đơn vị sự nghiệp công lập vẫn thực hiện cấp phát theo dự toán, chưa chuyển sang cơ chế đặt hàng, đấu thầu dịch vụ công; thiếu tiêu chí đánh giá hiệu quả, chất lượng hoạt động cung cấp dịch vụ công… 

Cần hành lang pháp lý đồng bộ để tháo gỡ vướng mắc, bất cập

Từ những vướng mắc, bất cập về cơ sở pháp lý, mô hình tổ chức, cơ chế quản lý tài chính đặt ra yêu cầu phải thực hiện một số giải pháp nhằm đổi mới toàn diện, đồng bộ hệ thống đơn vị dịch vụ sự nghiệp công. Theo TS Lê Đình Thăng cần xác định rõ sứ mệnh của đơn vị sự nghiệp công lập, đó là đơn vị giữ vai trò chủ đạo, vị trí then chốt trong cung ứng dịch vụ công theo hướng những hàng hóa, dịch vụ mà lĩnh vực tư nhân không cung cấp hoặc không đủ khả năng cung cấp; đảm bảo an sinh xã hội; phục vụ hoạt động quản lý nhà nước của các cơ quan nhà nước để có chính sách quản lý phù hợp.

Thứ hai, đổi mới tư duy về cơ chế tự chủ tài chính trong quản lý đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng tăng tính tự chủ, tự quyết định, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị sự nghiệp công nhưng không có nghĩa là ngân sách nhà nước không hỗ trợ các đơn vị này. Mặt khác, một số hàng hóa, dịch vụ mà đơn vị ngoài nhà nước có khả năng cung cấp với chất lượng cao thì tạo cơ chế cho tư nhân tham gia. Nhà nước xây dựng cơ chế để tư nhân tham gia cung cấp dịch vụ công. Không để vì tự chủ, tự quyết định dẫn đến thiếu dịch vụ công thiết yếu, không đảm bảo chất lượng cung cấp cho người dân, nhất là dịch vụ cơ bản về y tế, giáo dục tại miền núi, biên giới, hải đảo vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; không để vì áp lực tự chủ, tự quyết định mà để tình trạng lạm thu, thu vượt quy định, đẩy giá dịch vụ lên cao mà không có sự điều tiết, vượt quá khả năng chi trả của đại bộ phận người dân, đặc biệt là người nghèo, không có điều kiện tài chính. Đổi mới tư duy không chỉ là thay đổi lớn trong quan điểm, chủ trương, đường lối, thể chế chính sách mà còn là sự đổi mới trong nhận thức của đội ngũ cán bộ công chức, viên chức trong quá trình thực thi chính sách. Đổi mới tư duy về cơ chế tự chủ sẽ kéo theo những thay đổi căn bản trong thiết kế chính sách đối với đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức lại hệ thống đơn vị sự nghiệp công và trong huy động, phân bổ nguồn lực. 

Thứ ba, luôn xác định đơn vị sự nghiệp công giữ vai trò chủ đạo trong cung cấp dịch vụ thiết yếu và thực hiện chính sách xã hội, tạo cơ hội tiếp cận dễ dàng, thuận lợi, bình đẳng cho mọi người dân, tổ chức với chất lượng ngày càng cao và chi phí hợp lý. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tăng cường đầu tư hằng năm cho việc xây dựng cơ sở vật chất đối với các hoạt động sự nghiệp công cơ bản, cơ cấu lại chi thường xuyên theo hướng đảm bảo kinh phí hoạt động thường xuyên đối với các đơn vị thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước.

Thứ tư, cần nghiên cứu, ban hành Luật đơn vị sự nghiệp công lập để tạo cơ sở pháp lý vững chắc, thống nhất, đồng bộ về đơn vị sự nghiệp công, đảm bảo tính hiệu lực trong thực hiện, vận hành chính sách, đạt mục tiêu theo đường lối, chủ trương mà Đảng và Nhà nước đặt ra. Trên cơ sở đó, giao Chính phủ ban hành các nghị định về cơ chế tự chủ đối với lĩnh vực quản lý nhà nước đảm bảo hiệu lực, hiệu quả và tuân thủ quy định thống nhất. Tiến tới ban hành Luật về cung ứng dịch vụ công, trong đó định hình sự tham gia của tư nhân trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ công và Nhà nước tham gia theo hướng những lĩnh vực mà tư nhân không hoặc không thể tham gia thì Nhà nước phải đóng vai trò cung cấp.

Thứ năm, ban hành quy hoạch tổng thể về mạng lưới cơ sở đơn vị sự nghiệp công lập đảm bảo thống nhất trong cả nước, có liên kết vùng, địa phương, tránh phân tán, chồng chéo nhiệm vụ.

Thứ sáu, đổi mới phương thức quản lý, cơ chế phân bổ cho đơn vị sự nghiệp công. Nhà nước cần xác định cụ thể dịch vụ công thuộc trách nhiệm nhà nước đảm bảo nguồn lực để đầu tư, duy trì cung ứng dịch vụ và dịch vụ công thực hiện xã hội hóa trong từng lĩnh vực. Ngân sách nhà nước ưu tiên sử dụng cho các dịch vụ không thể hoặc chưa thể xã hội hóa. Trên cơ sở đó, chỉ đạo các Bộ, ngành ban hành danh mục cụ thể các dịch vụ công theo từng lĩnh vực; về đấu thầu, đặt hàng, giao nhiệm vụ cung ứng dịch vụ sự nghiệp công sử dụng ngân sách nhà nước thông qua hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật. Cần nghiên cứu, thay đổi cách đầu tư vào các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng chuyển từ việc hỗ trợ ngân sách nhà nước theo mức độ tự chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập sang ban hành danh mục các đối tượng được hưởng sự hỗ trợ của Nhà nước trong sử dụng dịch vụ công. 

Thứ bảy, phân định rõ chức năng quản lý nhà nước và chức năng điều hành các đơn vị sự nghiệp công của Bộ, cơ quan ngang Bộ để có mô hình tổ chức phù hợp, đảm bảo khách quan và chất lượng cung cấp dịch vụ công theo lĩnh vực, ngành, không theo đơn vị hành chính. Hoàn thiện thể chế về cơ chế đặt hàng, giao nhiệm vụ cung ứng dịch vụ công. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống định mức kinh tế - kỹ thuật và tiêu chí, tiêu chuẩn của từng loại hình dịch vụ sự nghiệp công. Xác định trách nhiệm quản lý nhà nước của cơ quan có thẩm quyền trong việc xây dựng, ban hành định mức kinh tế, kỹ thuật, làm cơ sở đặt hàng dịch vụ công và đẩy nhanh lộ trình tính giá dịch vụ công sử dụng ngân sách nhà nước. 

Thứ tám, tăng cường kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động cung cấp dịch vụ công nhằm phát huy các yếu tố tích cực, hạn chế các mặt trái của cơ chế thị trường. Đẩy mạnh giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho đơn vị sự nghiệp công lập gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, quản lý hiệu quả hoạt động, chất lượng, sản phẩm đầu ra. Chú trọng đánh giá hiệu quả hoạt động cung cấp dịch vụ công trên cơ sở yếu tố đầu ra, tiến độ, chất lượng cung ứng dịch vụ công và trách nhiệm xã hội của đơn vị sự nghiệp công nhằm nâng cao khả năng tiếp cận và chất lượng dịch vụ sự nghiệp công cho mọi tầng lớp nhân dân trên cơ sở giữ vững, phát huy tốt hơn nữa vai trò chủ đạo, vị trí then chốt, bản chất tốt đẹp, ưu việt, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận của các đơn vị sự nghiệp công lập. Tăng cường kiểm soát quyền lực của người quản lý đơn vị sự nghiệp công lập để tránh việc lạm dụng quyền lực hoặc thực hiện sai lệch sứ mệnh của đơn vị sự nghiệp công.

Phiên họp 25, Uỷ ban thường vụ Quốc hội cho ý kiến về kế hoạch chuyên đề giám sát "Việc thực hiện chính sách, pháp luật về đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập giai đoạn 2018 - 2023”

Giám sát để tháo gỡ “nút thắt” về cơ chế

Với những vướng mắc từ thực tế, Uỷ ban thường vụ Quốc hội thực hiện giám sát chuyên đề với phạm vi rộng với đối tượng giám sát đa dạng, gồm cả Chính phủ; các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Nhóm thứ 2 bao gồm: các cơ quan Đảng ở Trung ương, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Quốc hội, Viện nghiên cứu lập pháp, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và cơ quan trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội. Phạm vi giám sát, giám sát từ ngày 25/10/2017 (từ khi ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII) đến hết ngày 31/12/2023 trên phạm vi cả nước.

Đoàn giám sát sẽ tổ chức giám sát, làm việc với một số địa phương là các tỉnh, thành phố lớn, có nhiều đơn vị sự nghiệp công lập, có đặc thù, đại diện các khu vực, vùng miền... (khoảng 10 - 12 tỉnh, thành phố, dự kiến gồm: Hà Nội, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thanh Hóa, Quảng Bình, Khánh Hòa, Lâm Đồng, Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, Long An).

Giám sát để làm rõ những vấn đề thực tiễn đặt ra, xác định nguyên nhân, chỉ rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc: Xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để thể chế hóa chủ trương của Đảng về đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập; Thực hiện chính sách, pháp luật về đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các đơn vị sự nghiệp công lập.

Đây được xác định là chuyên đề giám sát khó, liên quan đến cả hệ thống chính trị, có nhiều nghị quyết của Trung ương, Đại hội Đảng, các kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư… và nhiều luật, nhiều lĩnh vực. Hầu hết cơ quan trong hệ thống chính trị đều có đơn vị sự nghiệp công lập, nên phạm vi rất rộng, có rất nhiều luật điều chỉnh nhưng chưa có luật riêng.

Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương 

Phó Chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương nhấn mạnh quyết tâm giám sát để có hướng khắc phục, thực hiện hiệu quản Nghị quyết số 19-NQ/TW đã đề ra với mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn đến năm 2021, 2025 và 2030. Trong đó đề ra 5 mục tiêu cụ thể của giai đoạn đến năm 2021 gồm: Cơ bản hoàn thành việc thể chế hoá các chủ trương của Đảng về đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính và tổ chức lại hệ thống đơn vị sự nghiệp công lập; Giảm mạnh về đầu mối, tối thiểu bình quân cả nước giảm 10% đơn vị sự nghiệp công lập. Giảm tối thiểu 10% biên chế sự nghiệp hưởng lương từ ngân sách nhà nước so với năm 2015. Cơ bản chấm dứt số hợp đồng lao động không đúng quy định trong các đơn vị sự nghiệp công lập (trừ những đơn vị đã bảo đảm tự chủ tài chính); Phấn đấu có 10% đơn vị tự chủ tài chính, giảm bình quân 10% chi trực tiếp từ ngân sách nhà nước cho các đơn vị sự nghiệp công lập so với giai đoạn 2011 – 2015; Hoàn thành cơ bản việc chuyển đổi các đơn vị sự nghiệp kinh tế và sự nghiệp khác có đủ điều kiện thành công ty cổ phần (trừ các bệnh viện và trường học); Hoàn thành lộ trình tính giá dịch vụ sự nghiệp công (tính đủ tiền lương, chi phí trực tiếp, chi phí quản lý và khấu hao tài sản) đối với một số lĩnh vực cơ bản như y tế, giáo dục - đào tạo, giáo dục nghề nghiệp.

Hải Yến