RÀ SOÁT TỔNG THỂ, ĐẢM BẢO TÍNH THỐNG NHẤT, ĐỒNG BỘ TRONG KHUÔN KHỔ PHÁP LUẬT VỀ TÀI NGUYÊN NƯỚC

27/06/2023

Tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV xem xét, cho ý kiến về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Quan tâm đến dự án luật quan trọng này, nhiều đại biểu Quốc hội, chuyên gia cho rằng cần rà soát tổng thể kỹ lưỡng, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ trong khuôn khổ pháp luật về tài nguyên nước.

QUỐC HỘI TIẾP TỤC THẢO LUẬN VỀ KINH TẾ - XÃ HỘI VÀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

Trình Quốc hội dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh cho biết, dự án luật được xây dựng nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm minh bạch để có khả năng khai thác tối đa nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả; bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả trung ương và địa phương khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh

Bên cạnh đó, dự án luật cũng hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của nhà nước; giảm điều kiện kinh doanh cho tổ chức, cá nhân. Chuyển dần từ quản lý bằng công cụ hành chính sang quản lý bằng công cụ kinh tế thông qua các chính sách về: giá nước, thuế, phí, lệ phí, tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước; đẩy mạnh xã hội hoá.

Dự án luật được xây dựng trên quan điểm thể chế hóa quan điểm tài nguyên nước là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân và do Nhà nước thống nhất quản lý. Tài nguyên nước phải là cốt lõi trong xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế, xã hội, quy hoạch dân cư, quy hoạch các ngành, lĩnh vực có khai thác sử dụng nước, hoạch định chiến lược phát triển đất nước. Các quy định của Luật phải bảo đảm phù hợp với Hiến pháp, đồng bộ với các pháp luật chuyên ngành liên quan và phù hợp với các điều ước quốc tế có liên quan đến lĩnh vực tài nguyên nước mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.

Thẩm tra dự án luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KH,CN&MT) Lê Quang Huy nêu rõ, Ủy ban KH,CN&MT tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) với những lý do như đã nêu trong Tờ trình số 162/TTr-CP ngày 28/4/2023 của Chính phủ. Việc sửa đổi Luật giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý tài nguyên nước trong bối cảnh cần tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước, khắc phục những bất cập, tồn tại trong công tác quản lý tài nguyên nước và yêu cầu hội nhập quốc tế trong quản lý tài nguyên nước.

Về Hồ sơ Dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), Ủy ban KH,CN&MT cho rằng, Hồ sơ dự án Luật được chuẩn bị công phu, lấy ý kiến rộng rãi của các đối tượng sử dụng nước, các cơ quan quản lý nước; tham khảo pháp luật và kinh nghiệm quốc tế trong quản lý tài nguyên nước; tiếp thu nghiêm túc đầy đủ ý kiến của UBTVQH tại Phiên họp tháng 3/2023, ý kiến thẩm tra sơ bộ của Thường trực Ủy ban KH,CN&MT và của Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực các ủy ban khác của Quốc hội. Ủy ban KH,CN&MT nhận thấy Hồ sơ dự án Luật đáp ứng các yêu cầu của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XV.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy

Về sự phù hợp của nội dung dự thảo Luật với chủ trương, đường lối của Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban KH,CN&MT nêu ró, nội dung của dự thảo Luật đã thể chế hóa quan điểm, định hướng đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trong Nghị quyết số 24-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI , Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (về nội dung bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, thích ứng với biến đổi khí hậu, chủ động phòng tránh và giảm thiểu rủi ro thiên tai); các mục tiêu, nhiệm vụ trong 06 nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vùng Đông Nam Bộ, vùng Tây nguyên, vùng Bắc Trung bộ và duyên hải Trung bộ, vùng Đồng bằng sông Hồng, vùng Trung du và miền núi Bắc bộ ; Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 15/01/2019 của Bộ Chính trị về nâng cao hiệu quả quản lý, khai thác, sử dụng và phát huy các nguồn lực của nền kinh tế; Chỉ thị số 42-CT/TW ngày 24/3/2020 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng ngừa, ứng phó và khắc phục hậu quả thiên tai; Kết luận số 30-KL/TW ngày 25/02/2022 của Bộ Chính trị về chủ trương, chính sách của Việt Nam đối với việc các nước phát triển thủy điện trên dòng chính sông Mê Công; Kết luận số 36-KL/TW ngày 23/6/2022 của Bộ Chính trị về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, nhằm góp phần bảo đảm an ninh nguồn nước, phòng chống ô nhiễm nước và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt; đổi mới và hoàn thiện hành lang pháp lý về quản lý tài nguyên nước; khai thác, sử dụng hiệu quả tài nguyên nước theo hướng quản trị nước, đẩy mạnh xã hội hoá ngành nước và áp dụng các công cụ kinh tế trong quản lý tài nguyên nước.

Nội dung dự thảo Luật đã bám sát quan điểm, mục tiêu sửa đổi và 04 nhóm chính sách lớn đề ra tại Tờ trình số 162/TTr-CP bao gồm: Bảo đảm an ninh tài nguyên nước; Xã hội hóa ngành nước; Tài chính về tài nguyên nước; Bảo vệ tài nguyên nước, phòng chống tác hại do nước gây ra.

Tuy nhiên, Ủy ban KH,CN&MT đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo dự thảo Luật cần tập trung làm rõ hơn quan điểm về ứng dụng khoa học và công nghệ trong quản trị, phát triển tài nguyên nước, đặc biệt là công nghệ số để thống nhất về cơ sở dữ liệu, giảm thiểu nhân lực, quản lý vận hành hiệu quả, tiết kiệm chi phí, thuận lợi trong kiểm tra, giám sát… trong dự thảo Luật nhằm quản lý có hiệu quả và phát triển bền vững tài nguyên nước.

Quan tâm đến dự án luật này, GS.TS Lê Hồng Hạnh, Viện trưởng Viện Pháp luật và Kinh tế ASEAN cho rằng cần rà soát kỹ lưỡng khuôn khổ pháp luật về tài nguyên nước. Theo GS.TS Lê Hồng Hạnh, hệ thống văn bản tạo nên khuôn khổ pháp luật về tài nguyên nước không khổng lồ, đồ sộ như pháp luật đất đai, pháp luật lao động, pháp luật thuế. Tuy nhiên, xét ở tính đồng bộ, tính thống nhất và hiệu quả thì pháp luật về tài nguyên nước vẫn có nhiều hạn chế cả trong pháp luật thực định lẫn trong việc thi hành.

GS.TS Lê Hồng Hạnh cho biết, pháp luật hiện hành về tài nguyên nước bao gồm những nội dung cơ bản sau:

Về chính sách của Nhà nước về tài nguyên nước, pháp luật hiện hành quy định các chính sách cơ bản như nâng cao nhận thức pháp luật về tài nguyên nước thông qua phổ biến, giáo dục; sự tham gia của cộng đồng dân cư và tổ chức, cá nhân liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước; Lấy ý kiến đại diện cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước; Công khai thông tin.

GS.TS Lê Hồng Hạnh, Viện trưởng Viện Pháp luật và Kinh tế ASEAN

Về xác định các nguyên tắc quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra bao gồm:  nguyên tắc quản lý, bảo vệ, khai thác tổng hợp tài nguyên và môi trường các hồ chứa; lập, quản lý hành lang bảo vệ nguồn nước; Nguyên tắc ưu đãi; Nguyên tắc áp dụng các tiêu chuẩn, phương pháp viện dẫn; Nguyên tắc điều tra, đánh giá tài nguyên nước dưới đất; Nguyên tắc giám sát.

Xác định các nội dung quản lý tài nguyên nước bao gồm: Xây dựng chiến lược, quy hoạch tài nguyên nước; Lập Danh mục lưu vực sông, danh mục nguồn nước; Lưu trữ, sử dụng thông tin về tài nguyên nước; Trình tự, thủ tục cấp, đình chỉ, thu hồi giấy phép về tài nguyên nước; Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tài nguyên nước; Lưu trữ và công bố kết quả điều tra, đánh giá; Thanh tra, kiểm tra; Xử lý vi phạm; 8. Giải quyết tranh chấp.

Xác định quyền, nghĩa vụ của các chủ thể trong bảo vệ tài nguyên nước như trong các lĩnh vực cụ thể : Trách nhiệm bảo vệ tài nguyên nước; Phòng, chống ô nhiễm, suy thoái, cạn kiệt nguồn nước; Ứng phó, khắc phục sự cố ô nhiễm nguồn nước và phục hồi nguồn nước bị ô nhiễm, cạn kiệt; phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra như: Trách nhiệm, nghĩa vụ phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra; Phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại của nước do thiên tai gây ra; Phòng, chống hạn hán, lũ, lụt, ngập úng nhân tạo; Phòng, chống xâm nhập mặn; Phòng, chống sụt, lún đất; Phòng, chống sạt, lở bờ, bãi sông; quy định các hành vi bị nghiêm cấm. Ngoài ra, hệ thống pháp luật hiện hành còn có các quy định các vấn đề tài chính về tài nguyên nước.

Hồ Hương

Các bài viết khác