ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI CHO Ý KIẾN VỀ DỰ ÁN LUẬT VIỄN THÔNG (SỬA ĐỔI)
Sửa đổi Luật Viễn thông để đáp ứng xu thế phát triển mới
Vừa qua, tại Phiên họp thứ 22, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã xem xét, cho ý kiến về dự án Luật Viễn thông (sửa đổi). Luật Viễn thông được Quốc hội khóa XII thông qua tại kỳ họp thứ 6 ngày 23/11/2009 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2010, có ý nghĩa quan trọng đối với tiến trình phát triển, hội nhập của nền kinh tế nói chung và ngành viễn thông nói riêng, đánh dấu bước phát triển mới của pháp luật về viễn thông ở nước ta, đặc biệt là trước xu thế toàn cầu hóa.
Theo Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Phạm Đức Long, sau hơn 12 năm áp dụng, Luật Viễn thông và các văn bản hướng dẫn đã tạo hành lang pháp lý thúc đẩy cạnh tranh, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia thị trường. Mạng lưới cơ sở hạ tầng kỹ thuật viễn thông hiện đại, chất lượng dịch vụ viễn thông được hoàn thiện và nâng cao, phát triển thị trường viễn thông đa dạng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu của người sử dụng và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần đảm bảo an ninh và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam.
Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Phạm Đức Long
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Viễn thông đã bộc lộ một số điểm không còn phù hợp cần được điều chỉnh để giải quyết các vấn đề vướng mắc trong công tác thực thi cũng như đáp ứng xu thế phát triển mới: Xu hướng hội tụ giữa viễn thông, phát thanh truyền hình, công nghệ thông tin và tự động hóa đặt ra yêu cầu mới đối với lĩnh vực viễn thông. Công nghệ phát triển đã tạo ra các loại hình dịch vụ, mô hình kinh doanh mới thúc đẩy việc hình thành cơ sở hạ tầng viễn thông mới kết hợp với các hạ tầng kỹ thuật khác phục vụ nhu cầu phát triển của xã hội, của nền kinh tế. Lĩnh vực viễn thông mở rộng thêm các thành phần hạ tầng và dịch vụ nhằm đáp ứng yêu cầu là hạ tầng phục vụ kinh tế số, xã hội số;
Bên cạnh đó, các quy định về quản lý và điều tiết thị trường hiện nay đã thể hiện một số bất cập như: chưa có quy định về hoạt động bán buôn trong viễn thông (cho thuê hạ tầng và bán lưu lượng dịch vụ giữa các doanh nghiệp) để tránh đầu tư lặp lại cơ sở hạ tầng viễn thông, nâng cao hiệu quả, tiết kiệm chi phí đầu tư hạ tầng, đồng thời tạo thuận lợi cho gia nhập thị trường, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, cung cấp các dịch vụ mới; chưa quy định cụ thể về nghĩa vụ của các doanh nghiệp viễn thông có vị trí thống lĩnh thị trường trong việc cho thuê hạ tầng, bán buôn lưu lượng theo thông lệ quốc tế;
Thứ trưởng Phạm Đức Long cũng cho biết, việc cấp giấy phép cho các doanh nghiệp hiện nay chỉ có một hình thức cấp phép và quy trình, thủ tục giống nhau cho các loại giấy phép, chưa phân loại theo tính chất, đặc điểm của từng loại mạng, dịch vụ viễn thông (quy mô, đối tượng cung cấp dịch vụ, sử dụng tài nguyên viễn thông,...); điều kiện cấp phép là vốn pháp định và mức cam kết đầu tư theo số tiền cụ thể không còn phù hợp.
Toàn cảnh phiên họp
Xu thế phát triển dịch vụ vệ tinh chùm với các dịch vụ viễn thông do doanh nghiệp nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam đặt ra yêu cầu về bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo vệ dữ liệu, quyền lợi của người sử dụng, đồng thời, tác động đến thị trường dịch vụ băng rộng cố định và di động mặt đất trong nước;
Thêm vào đó, từ năm 2010 đến nay, Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA)..., với những cam kết mới và cao hơn so với các cam kết của Việt Nam khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Yêu cầu đặt ra là cần nội luật hóa các cam kết và xem xét bổ sung, hoàn thiện một số quy định để thực thi các cam kết, trong tình hình phải bảo đảm an toàn, an ninh, chủ quyền quốc gia trên không gian mạng;
Môi trường pháp luật chung có nhiều thay đổi, từ sau năm 2010 Việt Nam tiếp tục hoàn thiện thể chế như: Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Cạnh tranh, Luật Quy hoạch, Luật Quản lý và sử dụng tài sản công, Luật Đấu giá tài sản, Luật Giá… đã được ban hành mới, sửa đổi, bổ sung có các nội dung liên quan đến lĩnh vực viễn thông. Do đó Luật Viễn thông cần được xem xét, điều chỉnh để bảo đảm tính đồng bộ, tính thống nhất của hệ thống pháp luật.
Đảm bảo đồng bộ với Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Giá (sửa đổi), Luật Đấu thầu (sửa đổi)
Tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy nêu rõ, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường cơ bản tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Viễn thông (sửa đổi) với những lý do như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ, nhằm thể chế hóa nội dung Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng, Nghị quyết số 52/NQ-TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 17/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Việc sửa đổi Luật Viễn thông được ban hành cách đây 13 năm nhằm thể chế hóa kịp thời những yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện các cam kết quốc tế; góp phần phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực viễn thông, thực hiện mục tiêu xây dựng hạ tầng số đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế số, xã hội số; đồng thời, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với các quy định của pháp luật hiện hành, khắc phục những bất cập, khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực hiện Luật Viễn thông thời gian qua.
Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Lê Quang Huy
Tuy nhiên, Chủ nhiệm Lê Quang Huy cũng nhấn mạnh, nhiều ý kiến cho rằng Tờ trình chưa làm nổi bật được sự cần thiết phải sửa đổi Luật Viễn thông một cách toàn diện, đặc biệt là bối cảnh khoa học, công nghệ đang phát triển nhanh chóng, xu hướng hội tụ, giao thoa giữa viễn thông, công nghệ thông tin, công nghệ số, tự động hóa, phát thanh, truyền hình... dẫn tới việc khó phân biệt rạch ròi ranh giới giữa các lĩnh vực này, phần nào gây lúng túng trong quá trình xây dựng các chế định pháp lý phù hợp. Do đó, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu bổ sung thông tin, làm rõ hơn về tính cấp thiết, quan điểm xây dựng Luật trong bối cảnh mới.
Về tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường nhận thấy, nhìn chung nội dung dự thảo Luật phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, quy định của Hiến pháp năm 2013. Dự thảo Luật đã kế thừa hợp lý các quy định của Luật hiện hành; bổ sung một số quy định mới; sửa đổi, bổ sung nhiều quy định để khắc phục bất cập trong thực tiễn. Tuy nhiên, đề nghị Cơ quan chủ trì soạn thảo tiếp tục rà soát các quy định được sửa đổi, bổ sung của dự thảo Luật để phù hợp với các luật khác có liên quan như các luật hiện hành trong lĩnh vực thông tin và truyền thông, lĩnh vực tư pháp, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Cạnh tranh, Luật Đấu giá tài sản, Luật Quản lý và sử dụng tài sản công… để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Ngoài ra, Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường đề nghị cần rà soát, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất quy định của dự thảo Luật này với các quy định của các luật khác đang trình Quốc hội xem xét, thông qua trong thời gian tới như dự án Luật Đất đai (sửa đổi), Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng (sửa đổi), Luật Căn cước công dân (sửa đổi), Luật Giá (sửa đổi), Luật Đấu thầu (sửa đổi)...