Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh
Đánh giá việc tổng kết thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết, một số nội dung tại Nghị quyết chưa được hướng dẫn đầy đủ, chưa thống nhất hoặc khó triển khai. Cụ thể, còn thiếu một số hướng dẫn về phương pháp thẩm định giá đối với các khoản nợ, làm cơ sở triển khai quy định tại khoản 3 Điều 6 của Nghị quyết; Trường hợp trên/trong tài sản bị thu giữ có các tài sản khác của bên bảo đảm hoặc bên thứ ba (các đồ gia dụng, điện tử, giường tủ…); chế tài xử lý hoặc cơ chế, cách thức tiến hành cưỡng chế trong trường hợp bên bảo đảm, bên giữ tài sản không hợp tác hoặc xử lý tài sản bảo đảm là tài sản duy nhất của bên bảo đảm để triển khai quy định tại Điều 7 của Nghị quyết; Nội hàm quy định về “Tài sản tranh chấp trong vụ án” tại điểm d khoản 2 Điều 7 của Nghị quyết; Nội hàm quy định về “không ảnh hưởng đến việc xử lý vụ án và thi hành án” quy định tại Điều 14 của Nghị quyết.
Bên cạnh đó, Điều 8 của Nghị quyết số 42 đã được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn triển khai theo Nghị quyết số 03, tuy nhiên còn có khó khăn cho tổ chức tín dụng do hầu hết các khoản nợ khó đáp ứng đầy đủ các quy định để được áp dụng thủ tục này. Mặt khác, bên nợ, bên bảo đảm thường cố tình tạo ra các tình tiết mới để không đủ điều kiện áp dụng thủ tục rút gọn quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự, dẫn đến kéo dài thời gian giải quyết. Do đó, nhiều trường hợp đang trong quá trình xem xét nhưng phải chuyển sang xét xử theo thủ tục thông thường; đến nay, hầu như chưa có tổ chức tín dụng nào được áp dụng thành công thủ tục rút gọn trong giải quyết tranh chấp theo quy định tại Điều này.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cũng cho hay, việc hướng dẫn triển khai quy định tại Điều 12 của Nghị quyết về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm còn chưa thống nhất và chưa đúng tinh thần của Nghị quyết số 42. Theo quy định tại Điều 12, “số tiền thu được từ xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu, sau khi trừ chi phí bảo quản, thu giữ và chi phí xử lý tài sản bảo đảm được ưu tiên thanh toán cho nghĩa vụ nợ được bảo đảm cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu trước khi thực hiện nghĩa vụ thuế, nghĩa vụ khác không có bảo đảm của bên bảo đảm”. Tuy nhiên, Bộ Tài chính lại hướng dẫn “tổ chức tín dụng thỏa thuận đối với các bên liên quan về cách thức thanh toán các khoản thuế thu nhập cá nhân phát sinh trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm theo nội dung Thông báo số 106/TB-VPCP ngày 22/3/2019 của Văn phòng Chính phủ”.
Toàn cảnh phiên họp
Tổng cục Thi hành án dân sự cũng có công văn số 2004/TCTHADS-NV1 ngày 3/7/2019 hướng dẫn thực hiện việc ưu tiên thanh toán án phí trong các vụ việc thi hành án tín dụng, ngân hàng theo đúng quy định tại Điều 47 Luật THADS. Do vậy, trong quá trình triển khai, nhiều tổ chức tín dụng vẫn phải nộp thuế hoặc án phí làm giảm số tiền thu hồi nợ của tổ chức tín dụng, nhất là khi số tiền xử lý tài sản bảo đảm không đủ thu hồi nợ. Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế cũng cho biết, hiện còn thiếu hệ thống cơ sở dữ liệu về tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý để các tổ chức tín dụng tra cứu, tham chiếu khi thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm.
Ngoài ra, có một số vấn đề được các cơ quan, tổ chức phản ánh là cần thiết trong thực tiễn để thúc đẩy xử lý nợ xấu nhưng chưa được quy định trong Nghị quyết, như: các chủ thể tham gia thị trường mua bán nợ tương đối đa dạng nhưng không được thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm cũng như các quyền khác tại Nghị quyết (hiện chỉ có VAMC được thực hiện); tại Điều 8 chưa quy định các tranh chấp hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng với khách hàng vay được áp dụng thủ tục rút gọn, trong khi tranh chấp của các khoản nợ xấu tại các tổ chức tín dụng hầu hết là tranh chấp về hợp đồng tín dụng; tại Điều 14 mới chỉ quy định hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự mà chưa quy định đối với tài sản bảo đảm là tang vật trong vụ việc vi phạm hành chính, chưa đồng bộ, thống nhất với pháp luật về xử lý vi phạm hành chính.
Ủy ban Kinh tế cho rằng nguyên nhân khách quan của những khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý nợ xấu theo Nghị quyết số 42 xuất phát từ những diễn biến phức tạp, khó lường của dịch COVID-19 làm giảm tốc độ xử lý nợ xấu từ năm 2020 đến nay. Ngoài ra, các nguyên nhân chủ quan như nhiều trường hợp khách hàng không hợp tác với tổ chức tín dụng hoặc trốn tránh trong quá trình xử lý thu hồi nợ; một số tổ chức tín dụng chưa tuân thủ đúng quy định tại Nghị quyết số 42 hoặc chưa phối hợp tốt với cơ quan liên quan; sự phối hợp giữa các cơ quan còn chưa kịp thời, nhất quán; việc hoàn trả tài sản bảo đảm là vật chứng trong vụ án hình sự còn chậm, ảnh hưởng đến tiến độ xử lý nợ xấu của tổ chức tín dụng... Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế đề nghị cần có giải pháp tích cực, quyết liệt hơn để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc gắn với trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức cụ thể.