Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội thông qua năm 2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019 là văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến loại tài sản đặc biệt - tài sản trí tuệ.
Qua thực tiễn hơn 16 năm thi hành, Luật Sở hữu trí tuệ đã phát huy vai trò to lớn trong việc tạo hành lang pháp lý cho hoạt động sáng tạo, xác lập, khai thác, sử dụng và thụ hưởng các đối tượng của quyền tác giả, quyền liên quan như tác phẩm, cuộc biểu diễn, v.v., tạo ra, xác lập, khai thác và bảo vệ quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng và tạo môi trường kinh doanh lành mạnh; góp phần khuyến khích hoạt động sáng tạo; đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, thu hút đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, Luật Sở hữu trí tuệ còn là nền tảng đưa hệ thống bảo hộ sở hữu trí tuệ của Việt Nam đạt chuẩn mực theo Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), cũng như đáp ứng các nghĩa vụ theo cam kết trong các hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam tham gia.
Cần thể chế chủ trương của Đảng
Trong tình hình mới, thời gian qua, Đảng ta đã ban hành nhiều văn bản thể hiện quan điểm, chủ trương mới về các vấn đề liên quan đến sở hữu trí tuệ cần phải được thể chế hóa; đồng thời thực tiễn thi hành cùng với việc hội nhập quốc tế sâu rộng của Việt Nam trong thời gian qua cho thấy Luật Sở hữu trí tuệ cần phải được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung để đáp ứng các yêu cầu đặt ra.
Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã đề ra nhiệm vụ "hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích sáng tạo, bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy cao; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi hiệu quả".
Nghị quyết số 52-NQ/TW ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đã xác định rõ “hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, bảo hộ và khai thác hiệu quả, hợp lý các tài sản trí tuệ do Việt Nam tạo ra; khuyến khích thương mại hóa và chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là đối với các sáng chế tại Việt Nam trên cơ sở tuân thủ pháp luật trong nước và bảo đảm lợi ích an ninh quốc gia. Khuyến khích các công ty đa quốc gia đặt các cơ sở nghiên cứu và phát triển tại Việt Nam”.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ là phải “hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ”. Ngoài ra, việc “tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ” cũng được đặt ra trong nhiệm vụ chung về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, nằm trong Chiến lược của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030.
Khắc phục những quy định bất cập, không phù hợp với thực tiễn
Mặt khác sau 16 thi hành Luật Sở hữu trí tuệ đã phát sinh một số bất cập. Trong đó, quy định về việc bảo đảm hài hòa lợi ích giữa chủ thể quyền tác giả, quyền liên quan với tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng và công chúng hưởng thụ trong các trường hợp giới hạn và ngoại lệ quyền tác giả, quyền liên quan chưa đáp ứng yêu cầu thúc đẩy khai thác sử dụng, làm nền tảng phát triển các ngành công nghiệp văn hoá. Quy định về hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và thực thi trên môi trường số chưa theo kịp được việc sử dụng tiến bộ của khoa học và công nghệ của các hành vi xâm phạm quyền.
Trong lĩnh vực quền sở hữu công nghiệp, quy định pháp luật liên quan đến điều kiện và mức độ bảo hộ các đối tượng sở hữu trí tuệ chưa bảo đảm sự thỏa đáng và cân bằng giữa quyền của chủ sở hữu và quyền lợi của công chúng như: phạm vi tình trạng kỹ thuật để đánh giá tính mới của sáng chế; thiếu một số căn cứ hủy bỏ hiệu lực Bằng độc quyền sáng chế/Bằng độc quyền giải pháp hữu ích; chưa có quy định về trường hợp chuyển giao quyền sử dụng sáng chế theo quyết định bắt buộc để xuất khẩu; vấn đề trong giải quyết xung đột quyền giữa nhãn hiệu …
Các quy định về quyền tạm thời đối với giống cây trồng; hành vi xâm phạm quyền đối với giống cây trồng chưa bao quát hết các tình huống có thể xảy ra; quyền giữ giống của nông dân chưa có quy định thỏa đáng nhằm hài hòa giữa lợi ích của chủ sở hữu và nông dân…
Yêu cầu từ các cam kết quốc tế
Ngoài ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã tham gia đàm phán và ký kết nhiều FTA như FTA Việt Nam – Hàn Quốc, Việt Nam và Liên minh kinh tế Á-Âu (VN-EAEU FTA), các FTA thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), FTA giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), FTA giữa Việt Nam và Vương quốc Anh và Bắc Ai-len (UKVFTA).
Tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết Phê chuẩn Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Châu Âu (EVFTA)
Luật Sở hữu trí tuệ phải được sửa đổi, bổ sung để thực hiện một số nghĩa vụ về sở hữu trí tuệ trong CPTPP như về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, bảo đảm thông tin và thời gian cho chủ bằng sáng chế thực thi quyền trước khi sản phẩm được phép đưa ra thị trường, thẩm quyền chủ động tiến hành các thủ tục kiểm soát biên giới của cơ quan hải quan; nghĩa vụ về bảo hộ độc quyền dữ liệu thử nghiệm nông hóa phẩm.
EVFTA cũng có một số quy định liên quan đến việc bỏ quy định văn bằng bảo hộ ghi nhận các tổ chức, cá nhân có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý; làm rõ nguyên tắc bảo hộ kiểu dáng công nghiệp của sản phẩm là bộ phận của sản phẩm hoàn chỉnh; cơ chế đền bù cho việc giảm thời hạn bảo hộ hữu hiệu của bằng sáng chế do sự chậm trễ bất hợp lý trong việc cấp phép lưu hành thị trường, v.v. cũng cần được bổ sung vào Luật Sở hữu trí tuệ.
Do đó để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ; bảo đảm phù hợp với các văn bản trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là các quy định của Bộ luật Dân sự và các văn bản pháp luật chuyên ngành; nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập đặt ra trong quá trình thi hành Luật Sở hữu trí tuệ; nhằm bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia hoặc đang trong quá trình hoàn thiện các thủ tục để tham gia, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ trên cơ sở phát huy ưu điểm và khắc phục các hạn chế của Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành. Từ đó hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích sáng tạo, bảo đảm tính ổn định, thống nhất, đồng bộ, minh bạch, khả thi, quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi hiệu quả, đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ , góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
Trước đó, với tinh thần chuẩn bị từ sớm từ xa, bảo đảm chất lượng tốt nhất các nội dung trình Quốc hội, ngay từ đầu tháng 8 khi Chính phủ chưa có Tờ trình chính thức về Dự án luật này, Chủ tịch Quốc hội đã trực tiếp chỉ đạo và đã cùng với Phó Chủ tịch Quốc hội phụ trách lĩnh vực làm việc với cơ quan chủ trì thẩm tra của Quốc hội nắm tình hình triển khai xây dựng dự án luật này theo đúng Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2021, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020 tại Nghị quyết số 106/2020/QH14.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ chủ trì buổi làm việc với Thường trực các Ủy ban của Quốc hội về tiến độ triển khai các dự án luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 2
Tại buổi làm việc, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ dành nhiều kỳ vọng đối với các dự án luật trình tại Kỳ họp thứ 2 tới của Quốc hội trong đó có dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ. Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh đây là những dự án luật mở đầu cho chương trình lập pháp của Quốc hội khóa XV. Do đó, phải chuẩn bị thật kỹ lưỡng, từ sớm, từ xa, xem xét qua nhiều vòng, thảo luận tất cả các vấn đề đặt ra, chuẩn bị tốt cho các dự án luật sẽ là tiền đề cho cả nhiệm kỳ.
Cho biết dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ là dự án luật khó, phức tạp và chuyên sâu đòi hỏi sự tập trung, nỗ lực của các cơ quan, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ lưu ý 3 yêu cầu trong quá trình xây dựng luật. Đó là cần thể chế hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về sở hữu trí tuệ trong bối cảnh tác động của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư; bảo đảm thực hiện các cam kết quốc tế; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các luật hiện hành.
Chủ tịch Quốc hội đề nghị Ủy ban Pháp luật cần phối hợp chặt chẽ với Viện Nghiên cứu lập pháp, các cơ quan hữu quan để nghiên cứu, khảo sát, lấy ý kiến chuyên gia tham gia đóng góp xây dựng luật. Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh điều quan trọng là lắng nghe ý kiến các bên, cầu thị trong quá trình lập pháp, tận dụng khai thác trí tuệ toàn dân, chuyên gia khi đó mới bảo đảm chất lượng của luật khi ban hành./.