Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng nêu rõ: Tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều.
Sau kỳ họp Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường (KH,CN&MT) phối hợp với Ban soạn thảo và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật theo ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội (ĐBQH). Dự thảo Luật đã được Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến và gửi xin ý kiến các Đoàn ĐBQH. Nội dung chi tiết, cụ thể đã được trình bày tại Báo cáo số 536/BC-UBTVQH14 trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 9.
Bổ sung một số loại hình thiên tai (điểm a Khoản 1 Điều 1)
Đa số ý kiến các vị ĐBQH tán thành với bổ sung 02 loại hình thiên tai mới và 03 loại công trình phòng, chống thiên tai (PCTT) như Tờ trình của Chính phủ. Bên cạnh đó, có ý kiến đề nghị bổ sung một số loại hình thiên tai như “sương giá”,“triều cường”, “giông lốc”, “lún sụt”; bổ sung cháy rừng do tự nhiên là loại hình thiên tai trong vì tính chất khốc liệt của loại cháy này để chủ động phòng, chống và sử dụng hiệu quả hệ thống Ban chỉ đạo, chỉ huy PCTT cho công tác này.
Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều.
Đối với “sương giá”, “triều cường”, “giông lốc”, “lún sụt” là các dạng thể hiện của các loại hình thiên tai đã được quy định trong Luật như: triều cường là một dạng của ngập lụt, sương giá là kết hợp của sương muối và rét hại... Do vậy, xin phép Quốc hội không bổ sung các loại hình thiên tai này trong dự thảo Luật. Đối với cháy rừng thì có cả nguyên nhân do thiên tai và nhân tai; việc phòng, chống cháy rừng đã được quy định trong pháp luật về lâm nghiệp, pháp luật về phòng cháy và chữa cháy.
Tuy nhiên, do tác động bất lợi của thời tiết, trong đó có sự cố, nắng nóng, hạn hán kéo dài thì nguy cơ cháy rừng luôn ở mức độ cao (cấp IV- nguy hiểm, cấp V - đặc biệt nguy hiểm), xảy ra trên diện rộng và đồng thời ở nhiều tỉnh/thành phố. Các vụ cháy rừng lớn đầu năm 2019 ở các tỉnh Điện Biên, Sơn La và Hà Tĩnh…đều có nguyên nhân từ nắng nóng kéo dài, diện tích cháy lớn, rất khó kiểm soát; việc khống chế đã vượt quá khả năng của lực lượng chức năng kiểm lâm, cảnh sát phòng cháy, chữa cháy trên địa bàn. Do vậy, cháy rừng ở mức độ nghiêm trọng, do nắng nóng kéo dài và các sự cố khác cần được xác định là một dạng thiên tai đặc thù. Việc quy định như vậy không chồng chéo với Luật Lâm nghiệp, Luật Phòng cháy và chữa cháy; khắc phục được hạn chế của quy định hiện hành khi cháy rừng ở quy mô lớn, mức độ nghiêm trọng, vượt quá khả năng khống chế của lực lượng chuyên ngành (Hiện 2 luật này chủ yếu quy định phòng ngừa tác nhân cháy do con người gây ra). Ở nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Úc, Braxin...đều coi cháy rừng là một dạng thảm họa thiên nhiên.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho phép bổ sung cháy rừng là một loại hình thiên tai đặc thù. Thủ tướng Chính phủ sẽ quy định rõ cháy rừng ở mức độ nào sẽ được điều chỉnh Luật PCTT.
Các đại biểu tham dự kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XIV.
Về nguồn nhân lực cho PCTT (Khoản 3 Điều 1): Đa số ĐBQH tán thành với quy định về thành lập lực lượng xung kích PCTT ở cấp xã như Dự thảo Luật và đề nghị làm rõ lực lượng này hoạt động chuyên trách hay kiêm nhiệm.
Ý kiến khác cho rằng, quy định này dễ gây xung đột về việc thực hiện nhiệm vụ, không bao quát hết mọi loại hình thiên tai và có thể gây chồng chéo với các lực lượng khác khi tham gia PCTT.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, dự thảo Luật đã chỉnh sửa và thể hiện như tại khoản 3 Điều 6.
Về ngân sách nhà nước cho PCTT (Khoản 6 Điều 1): Có ĐBQH đề nghị cần quy định rõ nguồn NSNN cho PCTT; bổ sung quy định về ưu tiên bố trí ngân sách cho PCTT từ nguồn kế hoạch trung hạn; có cơ chế đặc thù đối với quản lý, sử dụng nguồn NSNN cho PCTT, đặc biệt là hoạt động ứng phó khẩn cấp, khắc phục sự cố thiên tai để phù hợp với tính chất, mức độ, quy mô và tần suất thiên tai; việc sử dụng dự phòng NSNN thì nên sử dụng hết của địa phương thì mới đề nghị Chính phủ hỗ trợ.
Tiếp thu các ý kiến trên, dự thảo Luật đã chỉnh sửa và bổ sung như tại khoản 6 Điều 1 cho đầy đủ và phù hợp với Luật NSNN. Có ĐBQH đề nghị NSNN cho PCTT cần bổ sung mục chi riêng trong mục lục NSNN để tập trung, chủ động nguồn lực cho PCTT, tránh tình trạng thiếu hụt và chậm trễ trong phân bổ, sử dụng. Ý kiến khác đề nghị không nên quy định nội dung này trong Luật mà để văn bản hướng dẫn Luật NSNN quy định.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, NSNN cho PCTT mặc dù được Nhà nước quan tâm nhưng cũng chỉ đáp ứng được một phần của Kế hoạch PCTT; do nguồn lực thiếu nên NSNN chủ yếu tập trung cho công tác ứng phó thiên tai và hỗ trợ một phần cho khắc phục hậu quả thiên tai; việc sử dụng còn thiếu tập trung, thiếu đồng bộ do sử dụng từ nhiều nguồn, nhiều cơ quan quản lý nên việc cần có mục chi NSNN cho PCTT là cần thiết. Tuy nhiên, theo Luật NSNN thì nội dung này được quy định trong văn bản dưới Luật (Điều 26). Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội không bổ sung nội dung này trong Luật và đề nghị Chính phủ chỉ đạo thực hiện trong văn bản dưới Luật.
Về Quỹ phòng, chống thiên tai (Khoản 7 Điều 1): Nhiều ĐBQH tán thành với việc cần thiết thành lập quỹ PCTT trung ương và đề nghị quy định rõ nguồn tài chính của Quỹ; nguồn thu, cơ chế sử dụng, việc điều chuyển Quỹ trong Luật để tránh trùng lặp, làm rõ có phát sinh thêm bộ máy không…Ý kiến khác cho rằng, không nên thành lập Quỹ này vì nguồn huy động của quốc tế ngoài ngân sách là không lớn và đã có các tổ chức huy động và tiếp nhận.
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng Luật PCTT hiện hành chỉ quy định về Quỹ PCTT được thành lập ở cấp tỉnh là quỹ hoạt động phi lợi nhuận, ngoài NSNN để hỗ trợ hoạt động PCTT ở địa phương. Thực tiễn PCTT cho thấy, ở địa phương thiên tai xảy ra nhiều thì nhu cầu sử dụng Quỹ PCTT lớn nhưng nguồn thu của Quỹ lại thấp, ngược lại một số địa phương khác lại có kết dư Quỹ lớn. Do vậy, cần có cơ chế điều tiết giữa các Quỹ PCTT cấp tỉnh. Việt Nam hiện tham gia nhiều hiệp định, thỏa thuận quốc tế về thiên tai, lại là nước bị thiệt hại nặng nề do thiên tai, đã có một số Chính phủ, tổ chức quốc tế hỗ trợ trực tiếp cho khắc phục hậu quả thiên tai nhưng pháp luật hiện hành còn thiếu cơ chế tiếp nhận. Vì vậy, việc thành lập Quỹ PCTT Trung ương để tiếp nhận hỗ trợ trực tiếp nước ngoài và điều tiết từ Quỹ PCTT cấp tỉnh là cần thiết.
Tiếp thu ý kiến ĐBQH, Dự thảo Luật đã quy định rõ về nguồn thu của Quỹ PCTT Trung ương, của cấp cấp tỉnh; việc điều tiết giữa Quỹ PCTT trung ương với các Quỹ PCTT cấp tỉnh; giữa các Quỹ PCTT cấp tỉnh; nguyên tắc hoạt động của Quỹ PCTT và giao Chính phủ quy định cụ thể để bảo đảm tính linh hoạt và thực hiện đúng tinh thần Chỉ thị 42-CT/TW của Ban Bí thư. Có ĐBQH đề nghị bổ sung trường hợp được sử dụng Quỹ PCTT trong hợp tác quốc tế để hỗ trợ một số nước bạn khi xảy ra thiên tai lớn.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin báo cáo, Quỹ PCTT được thành lập và hoạt động theo nguyên tắc tại khoản 4 Điều 10 thì chỉ phục vụ cho các yêu cầu cấp thiết cho hoạt động PCTT trong nước. Việc hỗ trợ, giúp các nước bạn về thiên tai được thực hiện từ nhiều nguồn như: từ NSNN, từ hỗ trợ của các tổ chức, cá nhân thông qua Hội chữ thập đỏ Việt Nam, Mặt trận tổ quốc Việt Nam…Do vậy, xin phép Quốc hội không bổ sung nội dung này trong dự thảo Luật.
Về thẩm quyền vận động quyên góp, hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai ( Khoản 19 Điều 1): Có ý kiến ĐBQH cho rằng, việc cứu trợ, hỗ trợ thiên tai là trách nhiệm của Nhà nước, quy định như Dự thảo Luật dễ dẫn đến việc vận động tràn lan, không có đầu mối để quản lý, chỉ nên giao một cơ quan chủ trì trong việc vận động quyên góp và tiếp nhận nguồn lực cứu trợ.
Việc huy động quyên góp cứu trợ, hỗ trợ thiên tai là hoạt động mang tính nhân đạo xã hội nhằm có thêm nguồn lực xã hội khắc phục hiệu quả, kịp thời khó khăn của người dân vùng bị thiên tai về cả vật chất và tinh thần. Trong dự thảo Luật đã có quy định: sau quyên góp, vận động thì nguồn lực này đều được chuyển giao cho các cơ quan, gồm Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam, Hội Chữ thập đỏ Việt Nam, UBND cấp tỉnh để phân bổ; giao cho Chính phủ quy định cụ thể việc huy động quyên góp và phân bổ nguồn lực cứu trợ (khoản 4 Điều 33). Vì vậy, đề nghị Quốc hội cho giữ nội dung này như dự thảo Luật để đa dạng hóa, bổ sung nguồn lực ngoài NSNN cho công tác cứu trợ, hỗ trợ khắc phục hậu quả thiên tai. Có ý kiến đề nghị xem xét tính khả thi quy định Ban chỉ đạo Quốc gia PCTT kêu gọi, tiếp nhận hỗ trợ của quốc tế (tại điểm đ khoản 2 Điều 33 Luật PCTT).
Như đã báo cáo ở trên, Việt Nam tham gia nhiều Hiệp định, thỏa thuận quốc tế về PCTT nên việc trao đổi thông tin, đề nghị hỗ trợ, cứu trợ về thiên tai là hoạt động mang tính chất thường xuyên, thuộc trách nhiệm của Ban chỉ đạo Trung ương về PCTT. Vì vậy, việc Ban chỉ đạo Trung ương về PCTT đứng ra kêu gọi, tiếp nhận các khoản hỗ trợ khẩn cấp của nước ngoài trong các tình huống khẩn cấp cũng là thực hiện quyền, nghĩa vụ của các quốc gia thành viên được quy định trong Hiệp định, thỏa thuận quốc tế. Việt Nam là một trong 05 quốc gia bị thiệt hại nặng nề nhất do thiên tai nên việc kêu gọi, tiếp nhận nguồn lực hỗ trợ từ quốc tế là cần thiết. Vì vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho giữ nội dung này như Chính phủ đã trình Quốc hội.
Về Ban chỉ đạo, chỉ huy PCTT và TKCN (Khoản 23 Điều 1): Có ý kiến đề nghị cần phân định rõ trách nhiệm của Ban chỉ đạo Trung ương về PCTT, Ban chỉ huy PCTT và TKCN các cấp với chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, trong điều kiện Ban chỉ đạo, chỉ huy PCTT&TKCN hoạt động kiêm nhiệm, nguồn lực chưa được bảo đảm như hiện nay thì việc quy định trách nhiệm của các cơ quan trong Luật là rất khó. Vì vậy, xin phép Quốc hội không bổ sung nội dung này trong Luật mà giao Chính phủ quy định trong văn bản dưới Luật cho phù hợp với điều kiện thực tế.
Có ĐBQH đề nghị cần quy định bộ phận chuyên trách về phòng chống thiên tai cấp tỉnh làm nhiệm vụ tham mưu cho Ban chỉ đạo PCTT &TKCN cấp tỉnh để nâng cao hiệu quả chỉ đạo, chỉ huy PCTT nhưng cũng có ý kiến đề nghị không nên quy định cứng trong Luật mà giao nhiệm vụ đó cho cơ quan chuyên môn ở địa phương. Về vấn đề này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội báo cáo như sau: Hiện nay bộ phận thường trực của Ban chỉ đạo PCTT và TKCN cấp tỉnh đã được thành lập theo Nghị định 160/2018/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật PCTT nhưng các thành viên này đều hoạt động kiêm nhiệm. Vì vậy, cần có bộ phận chuyên trách PCTT để làm nhiệm vụ theo dõi, tham mưu thường xuyên, liên tục cho Ban chỉ huy PCTT và TKCN cấp tỉnh. Bộ phận này được tổ chức lại trên cơ sở sử dụng chính đội ngũ cán bộ, công chức hiện có, đang kiêm nhiệm công tác PCTT tại cơ quan, đơn vị thuộc sở NN&PTNT nên không làm tăng biên chế, bộ máy hành chính. Do vậy, việc tổ chức bộ phận chuyên trách ở cấp tỉnh là cần thiết, phù hợp với điều kiện thực tế; phù hợp với Nghị quyết 18-NQ/TW, Nghị quyết 19-NQ/TW và chỉ đạo của Ban bí thư tại Chỉ thị 42-CT/TW, ngày 24/3/2020.
Tiếp thu ý kiến các ĐBQH, dự thảo Luật đã thể hiện nội dung này như tại khoản 23 Điều 1.
Về quy định cấp phép nạo vét luồng lạch đối với đê từ cấp III trở lên (Khoản 3 Điều 2): Có ý kiến ĐBQH cho rằng, việc bổ sung thẩm quyền Bộ NN&PTNT về cấp phép đối với các hoạt động liên quan tại điểm a,b,c, h Khoản 2 Điều 25 sẽ phát sinh thủ tục hành chính, đề nghị cần có đánh giá tác động.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội xin giải trình như sau, Luật Đê điều hiện hành đã quy định UBND cấp tỉnh có thẩm quyền cấp phép đối với các hoạt động quy định tại điểm a, b, c khoản 2 Điều 25 và thực hiện ổn định nhiều năm nay. Dự thảo Luật chỉ bổ sung nội dung đối với hoạt động nạo vét luồng lạch trong phạm vi bảo vệ đê điều đối với đê cấp đặc biệt, cấp I, cấp II, cấp III thì UBND tỉnh phải lấy ý kiến chấp thuận bằng văn bản của Bộ NN&PTNT (điểm h, khoản 2 Điều 25) cho phù hợp với thực tiễn thực thi pháp luật về đường thủy nội địa nên không phát sinh các thủ tục hành chính mới. Có ý kiến đề nghị hoạt động nạo vét luồng lạch trong phạm vi bảo vệ đê điều chỉ nên lấy ý kiến Bộ NN&PTNT với đê cấp I, cấp II, không nên áp dụng với đê cấp III. Theo quy định của pháp luật đê điều thì đê được phân cấp theo mức độ quan trọng cần phải bảo vệ và phân cấp quản lý. Theo đó, Bộ NN&PTNT quản lý đê cấp đặc biệt, cấp I, cấp II và cấp III nên quy định như Dự thảo Luật là phù hợp. Vì vậy, UBTVQH xin Quốc hội nội dung này như Dự thảo Luật.
Về sử dụng bãi nổi, cù lao (khoản 4 Điều 2): Có ý kiến ĐBQH đề nghị làm rõ điều kiện, tiêu chí cho việc sử dụng bãi nổi, cù lao để làm căn cứ cho việc cho phép xây dựng công trình hoặc xử lý công trình nhà ở khu vực bãi nổi, cù lao, tránh tình trạng phát triển tự phát như thời gian qua. Ủy ban thường vụ Quốc hội thấy rằng, các điều kiện, tiêu chí cho việc sử dụng bãi nổi, cù lao đã được quy định tại khoản 3 Điều 26 Luật Đê điều hiện hành. Tiếp thu ý kiến ĐBQH, các nội dung này sẽ được bổ sung cụ thể trong văn bản dưới Luật phần về quy hoạch phòng, chống lũ của tuyến sông có đê, quy hoạch đê điều, quy hoạch tỉnh theo quy định của pháp luật về quy hoạch…
Bên cạnh những vấn đề nêu trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý nhiều vấn đề về nội dung, kỹ thuật văn bản trong nhiều điều, khoản của Dự thảo Luật theo ý kiến góp ý của các vị ĐBQH; ý kiến góp ý của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội; rà soát, chỉnh lý nội dung của dự thảo Luật nhằm bảo đảm tính hợp hiến, thống nhất của hệ thống pháp luật. Với Báo cáo tóm tắt giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PCTT và Luật Đê điều, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định./.