Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam 2022
Trong những năm qua, Việt Nam chứng kiến những khó khăn và thách thức chưa có tiền lệ. Đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp đã ảnh hưởng lớn đến về sức khỏe và tính mạng của người dân, tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế và mọi mặt của đời sống xã hội. Trong khi đó, rủi ro bất ổn vĩ mô và bất ổn tài chính đang gia tăng. Sức ép lạm phát gia tăng do yếu tố chi phí đẩy và chính sách nới lỏng tiền tệ kéo dài. Dư địa chính sách tài khóa hạn hẹp hơn, thu ngân sách có thể khó khăn khi kinh tế suy giảm và thị trường tài sản điều chỉnh mạnh, trong khi chi ngân sách cho các gói kích thích kinh tế gia tăng.
Nhiều nghi vấn đặt ra về đích đến cuối cùng và hiệu quả của dòng tiền/tín dụng trong nền kinh tế. Một số chuyên gia và nhà nghiên cứu cho biết, tín dụng có thể không trực tiếp đi vào sản xuất, mà trực tiếp hoặc gián tiếp, được đẩy vào thị trường tài sản, nguy cơ bong bóng tài sản là hiện hữu. Sau một thời gian dài có xu hưởng giảm nợ xấu đã tăng trở lại, xuất phát từ những khó khăn của khu vực kinh tế thực cuối cùng sẽ lây nhiễm sang khu vực tài chính, và là hệ quả của việc nới lỏng một số quy định an toàn hệ thống để hỗ trợ hệ thống và nền kinh tế ứng phó với đại dịch. Như vậy, kinh tế vĩ mô cũng như hệ thống tài chính của Việt Nam đang đối diện với nhiều rủi ro bất ổn, khiến cho quá trình ứng phó với đại dịch và hồi phục kinh tế sẽ trở nên khó khăn hơn.
Nhận diện các rủi ro bất ổn tại khu vực kinh tế thực, GS.TS Phạm Hồng Chương – Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân cho biết, kết quả ước tính giá trị sản lượng tiềm năng cho thấy mức tăng trưởng tiềm năng đối với nền kinh tế Việt Nam nằm trong khoảng 6,12%-6,32%/ năm. Như vậy, trong 2 năm gần đây nền kinh tế Việt Nam đang hoạt động dưới mức sản lượng tiềm năng rất xa, đồng nghĩa với việc nền kinh tế đang có dấu hiệu bước vào chu kỳ đi xuống. Mặc dù tăng trưởng vẫn chưa rơi vào ngưỡng cảnh báo khủng hoảng nhưng đây rõ ràng là một yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng trả nợ của nền kinh tế cũng như tác động xấu đến các doanh nghiệp.
GS.TS. Phạm Hồng Chương – Hiệu trưởng Trường Đại học Kinh tế Quốc dân
Bên cạnh đó, mặc dù tỉ lệ lạm phát ở Việt Nam từ năm 2015 đến nay đều ở mức thấp và dưới ngưỡng gây hại cho hoạt động kinh tế nhưng nguy cơ rủi ro lạm phát đối với Việt Nam đang hiện hữu. Xét trong dài hạn, khi tăng trưởng kinh tế dưới mức tiềm năng, các nguồn lực không được sử dụng hiệu quả trong khi cung tiền gia tăng sẽ là yếu tố tác động lên lạm phát trung – dài hạn. Ngoài ra, tác động của chính sách tiền tệ-tài khóa nới lỏng giai đoạn 2020-2021 sẽ trở nên rõ nét hơn vào các năm sau và chắc chắn gây ra áp lực tăng giá. Về phía thị trường quốc tế, lạm phát tăng cao ở các nền kinh tế lớn gây nguy cơ “nhập khẩu lạm phát” và sự gia tăng mạnh của giá xăng dầu, giá nguyên vật liệu dẫn đến khả năng gây ra lạm phát “chi phí đẩy” cho nền kinh tế. Như vậy, thách thức lớn cho việc điều hành chính sách tiền tệ trong giai đoạn tới là từ xu hướng bật tăng trở lại của lạm phát. Với áp lực gia tăng lạm phát và trong điều kiện nền kinh tế đang hoạt động dưới mức sản lượng tiềm năng đòi hỏi Chính phủ cần thực thi chính sách tiền tệ và tài khóa mở rộng một cách thận trọng.
Bên cạnh đó, trong khu vực doanh nghiệp phi tài chính, GS.TS Phạm Hồng Chương chỉ ra rằng, các doanh nghiệp niêm yết, với lợi thế về tiếp cận vốn, đã tối ưu hoá kết quả kinh doanh và sinh lời bằng cách tăng cường dòng vốn đổ vào kinh doanh chứng khoán và bất động sản (mang tính đầu cơ). Lượng vốn đổ vào kinh doanh chứng khoán và bất động sản lớn nhất từ trước tới nay về quy mô và tỷ trọng. Việc tăng đầu tư, đầu cơ vào thị trường chứng khoán và bất động sản có thể khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn khi hai thị trường này có biến động, nguồn vốn dành cho sản xuất kinh doanh có thể bị thu hẹp lại.
Ở khía cạnh khác, về những rủi ro tại khu vực kinh tế đối ngoại, PGS.TS Tô Trung Thành nêu rõ, trong giai đoạn 2015-2021 và những tháng đầu năm 2022, Việt Nam chứng kiến một thời kỳ tương đối ổn định của tỷ giá hối đoái. Tỷ giá chính thức giao dịch tại các ngân hàng thương mại khá ổn định, nhìn chung đều nằm trong biên độ cho phép. Tại nhiều thời điểm, tỷ giá giao dịch tại ngân hàng thấp hơn khá nhiều so với biên độ cho phép, dù có vượt so với tỷ giá liên ngân hàng. Trong khi đó, tỷ giá trên thị trường tự do hầu hết đều bám khá sát với diễn biến thị trường chính thức. Tuy nhiên, số liệu về tỉ giá hối đoái thực cho thấy tỉ giá hối đoái thực REER của Việt Nam được định giá cao với mức độ tương đối lớn, dẫn đến hàng hóa Việt Nam giảm tính cạnh tranh so với hàng hóa quốc tế, từ đó ảnh hưởng tiêu cực lên xuất khẩu và cán cân thương mại.
Bên cạnh đó, trong giai đoạn 2015-2021, chỉ tiêu cán cân vãng lai của Việt Nam luôn nằm trong ngưỡng an toàn và có xu hướng cải thiện từ trạng thái thâm hụt sang thặng dư. Theo IMF, mức thâm hụt cán cân vãng lai lớn trong một số trường hợp là tín hiệu về khả năng dễ bị tổn thương trước khủng hoảng tiền tệ. Sự gia tăng thặng dư của tài khoản vãng lai có thể làm triệt tiêu khả năng phá giá và làm giảm bớt khả năng xảy ra khủng hoảng. Qua đó cho thấy, trong những năm gần đây khả năng ứng phó với các rủi ro bên ngoài của Việt Nam tăng lên. Đối với chỉ tiêu về dự trữ ngoại hối, kết quả phân tích các tiêu chí đánh giá quy mô dự trữ ngoại hối của Việt Nam giai đoạn 2015-2021 đều nằm trong ngưỡng an toàn theo khuyến nghị của các tổ chức quốc tế và có xu hướng cải thiện dần trong những năm gần đây. Tuy nhiên các chỉ tiêu này cũng mới chỉ đạt ngưỡng tối thiểu và mức dự trữ ngoại hối của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ tham dự Diễn đàn Kinh tế - Xã hội Việt Nam 2022
Mặt khác, một số chuyên gia, nhà nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, nợ công Việt Nam được dự báo an toàn, bền vững trước các cú sốc về tăng trưởng, bội chi, lãi suất và tỷ giá. Tuy nhiên, về cơ cấu nợ có cảnh báo rủi ro ở mức thấp và trung bình về nợ nước ngoài. Tổng nợ nước ngoài GDP của khu vực công tuy có xu hướng giảm, nhưng ngưỡng nợ này nằm trong mức cảnh báo trung bình. Với tình hình dịch bệnh mới và được thúc đẩy bởi gói hỗ trợ phục hồi kinh tế mới, các chuyên gia, nhà nghiên cứu cho rằng, tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 có thể đạt được mục tiêu 6,5% như kỳ vọng. Động lực tăng trưởng kinh tế vẫn đến từ đầu tầu khu vực kinh tế đối ngoại. Bên cạnh đó, bù đắp cho đầu tư khu vực tư nhân còn khó khăn, chưa thể hồi phục nhanh do tác động của đại dịch, đầu tư công được tăng cường sẽ đóng góp lớn vào tăng trưởng của năm 2022.
Những chính sách đảm bảo an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm được thực hiện giúp tăng các mức chi tiêu, đóng góp lớn vào quy mô nền kinh tế. Về phía sản xuất, ngành dịch vụ có cơ hội hồi phục mạnh mẽ trong năm 2022 với sự mở cửa trở lại của nền kinh tế. Bên cạnh đó, chất lượng tăng trưởng năm 2022 cũng được dự báo ở mức cao hơn, thông qua dự báo tăng trưởng TFP và năng suất lao động được cải thiện. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế năm 2022 cũng đứng trước nhiều thách thức lớn, đặc biệt là những rủi ro bất ổn vĩ mô và tài chính vẫn còn hiện hữu. Những rủi ro này có thể tác động ngược trở lại đến khu vực kinh tế thực, ảnh hưởng đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng.
Từ những phân tích trên, các chuyên gia, nhà nghiên cứu cho rằng khi đưa ra các chính sách, Chính phủ cần quán triệt quan điểm tập trung hướng đến làm thế nào để hồi phục và phát triển nền kinh tế một cách bền vững trong bối cảnh “sống chung với COVID-19”. Bên cạnh đó, để đảm bảo cân bằng bên trong của nền kinh tế thì sản lượng cần được duy trì gần mức tiềm năng; cần thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ hướng về tổng cầu trong ngắn hạn để đẩy nền kinh tế quay trở lại vị trí tiềm năng. Tuy nhiên, chính sách cần được nới lỏng một cách thận trọng để tránh gây rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô. Mặt khác, dư địa chính sách dần thu hẹp, các chính sách cần hướng nguồn lực ưu tiên đến khu vực doanh nghiệp, tạo điều kiện cho khu vực doanh nghiệp phục hồi và phát triển trong đại dịch; đặc biệt là những doanh nghiệp có ảnh hưởng lan tỏa lớn đến nền kinh tế.
Đưa ra khuyến nghị về chính sách tài khoá, các chuyên gia kinh tế nêu rõ phải coi chính sách tài khoá là chính sách hỗ trợ quan trọng nhất. Liên quan đến chính sách hỗ trợ doanh nghiệp, cần hỗ trợ đúng đối tượng và thiết thực hơn. Các gói an sinh xã hội cho các đối tượng bị ảnh hưởng cần được tiếp tục duy trì, đối tượng thụ hưởng nên được mở rộng và chú trọng tới nhóm lao động thuộc khu vực phi chính thức; đơn giản hóa và cụ thể hóa các tiêu chí xác định đối tượng được hưởng trợ cấp. Đồng thời, cần tiếp tục đẩy nhanh giải ngân vốn đầu tư công. Đi kèm với thúc đẩy đầu tư công cần xây dựng cơ chế đặc biệt để giám sát việc thực hiện giải ngân vốn đầu tư công trong giai đoạn hiện nay để đảm bảo việc giải ngân nhanh chóng nhưng phải có hiệu quả cao, tránh lãng phí, thất thoát, tham nhũng./.