RÀ SOÁT, HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ HOÀN THUẾ GTGT ĐẢM BẢO CHẶT CHẼ, PHÙ HỢP VỚI THỰC TIỄN

12/07/2024

Tán thành việc sửa đổi toàn diện Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT) nhằm khắc phục các vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện thời gian qua; tháo gỡ bất cập, chồng chéo trong hệ thống pháp luật thuế GTGT, nhiều ý kiến ĐBQH và chuyên gia cũng đề nghị, dự thảo Luật cần tiếp tục rà soát và hoàn thiện quy định về hoàn thuế đảm bảo chặt chẽ, phù hợp với thực tiễn,...

CẦN THIẾT SỬA ĐỔI LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG ĐỂ GIẢI QUYẾT CÁC BẤT CẬP TRONG THỰC TIỄN

Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV

Dự thảo Luật thuế GTGT (sửa đổi) trình Quốc hội khóa XV cho ý kiến lần đầu tại Kỳ họp thứ 7 gồm 04 Chương, 18 Điều. Đối với những nội dung sửa đổi, bổ sung, dự thảo Luật đã bám sát theo 05 nhóm chính sách tại Hồ sơ lập đề nghị xây dựng dự án Luật thuế GTGT (sửa đổi) gồm: Hoàn thiện các quy định về đối tượng không chịu thuế GTGT; Hoàn thiện các quy định về giá tính thuế GTGT; Hoàn thiện các quy định về thuế suất thuế GTGT; Hoàn thiện các quy định về khấu trừ thuế GTGT đầu vào; Hoàn thiện các quy định về hoàn thuế GTGT.

Liên quan đến nội dung hoàn thiện các quy định về hoàn thuế GTGT: Dự thảo Luật đã bổ sung một số quy định để tránh vướng mắc trong thực hiện, cụ thể: quy định cơ sở kinh doanh sản xuất hàng hóa, cung ứng dịch vụ chịu thuế suất thuế GTGT 5% nếu có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết từ ba trăm triệu đồng trở lên sau 12 tháng hoặc 04 quý thì được hoàn thuế GTGT (khoản 1 Điều 15 dự thảo Luật); quy định về điều kiện hoàn thuế (khoản 9 Điều 15 dự thảo Luật); quy định trình tự, thủ tục hoàn thuế (khoản 10 Điều 15 dự thảo Luật) để đảm bảo thẩm quyền các quy định đang thực hiện ổn định tại các văn bản dưới Luật và đồng bộ với pháp luật về quản lý thuế.

Ngoài ra, dự thảo cũng quy định về hoàn thuế GTGT đối với dự án đầu tư; hoàn thuế đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu; không hoàn thuế GTGT đối với dự án đầu tư của cơ sở kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện khi chưa đủ các điều kiện kinh doanh (khoản 2 Điều 15 dự thảo Luật); bổ sung một số quy định để luật hóa quy định đang thực hiện ổn định tại các văn bản dưới Luật. Đồng thời, bỏ một số quy định về hoàn thuế để phù hợp với thực tế phát sinh,...

Đại biểu Trần Thị Vân – Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh 

Quan tâm tới nội dung này, đại biểu Trần Thị Vân – Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh cho biết, thực tiễn tại tỉnh Bắc Ninh và một số địa phương khác phát sinh vướng mắc liên quan tới các trường hợp hoàn thuế. Do đó, đại biểu đề nghị ngoài các trường hợp được hoàn thuế GTGT được quy định tại Điều 15 của dự thảo luật, cần nghiên cứu bổ sung thêm quy định về hoàn thuế GTGT đối với trường hợp doanh nghiệp thường chuyển sang hoạt động theo loại hình doanh nghiệp chế xuất, có số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết. “Khi doanh nghiệp thường chuyển sang doanh nghiệp chế xuất, vẫn kế thừa toàn bộ quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp cũ nhưng sẽ làm chấm dứt nghĩa vụ thuế GTGT của doanh nghiệp. Do dó, số thuế GTGT chưa được khấu trừ hết cho doanh nghiệp khi chuyển đổi sang hoạt động theo doanh nghiệp chế xuất được xem xét, để xử lý hoàn thuế...”, đại biểu Trần Thị Vân lý giải.

Từ lập luận nêu trên, đại biểu cho rằng, cần rà soát quy định đầy đủ các trường hợp hoàn thuế đảm bảo phù hợp với thực tiễn, tránh bỏ sót trường hợp hoàn thuế để thu hút các doanh nghiệp nước ngoài.

Nêu quan điểm, đại biểu Đào Chí Nghĩa – Đoàn ĐBQH Tp. Cần Thơ cho biết, tại Chương 3 của Luật Quản lý thuế, quy định về thủ tục hoàn thuế có quy định cụ thể về hồ sơ, trình tự, thủ tục hoàn thuế. Theo đó, khi giải quyết hồ sơ hoàn thuế GTGT, cơ quan thuế sẽ căn cứ quy định của pháp luật về thuế GTGT và pháp luật về quản lý thuế để thực hiện hoàn thuế theo quy định. Tuy nhiên, việc giải quyết hoàn thuế GTGT hiện nay vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc do Luật Quản lý thuế chỉ mới quy định người nộp thuế phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ đề nghị hoàn thuế mà chưa quy định cụ thể về trách nhiệm của công chức thuế khi giải quyết hoàn thuế GTGT cho người nộp thuế…

Vì vậy, để bảo đảm việc giải quyết hoàn thuế kịp thời và tăng cường hậu kiểm sau hoàn thuế GTGT, đại biểu đề nghị dự thảo luật quy định rõ hơn về trách nhiệm của cơ quan thuế trong xử lý hồ sơ đề nghị hoàn thuế GTGT. Cụ thể: cơ quan thuế chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ đề nghị hoàn thuế GTGT, người nộp thuế chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực, đầy đủ của hồ sơ hoàn thuế GTGT.

Đại biểu Phạm Văn Hòa – Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp 

Liên quan đến việc bỏ quy định hoàn thuế trước, kiểm tra sau đối với trường hợp người nộp thuế có tính tuân thủ, không thuộc đối tượng rủi ro cao, đại biểu Phạm Văn Hòa – Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp nhấn mạnh, cần có quy định về nguyên tắc cho phép thực hiện hoàn thuế trước, kiểm tra sau đối với trường hợp người nộp thuế có tính tuân thủ cao và thực hiện kiểm tra trước, hoàn thuế sau đối với các trường hợp rủi ro cao. Trên cơ sở đó, pháp luật về quản lý thuế sẽ quy định cụ thể về tiêu chí để phân loại người nộp thuế dựa trên các nội dung quản lý rủi ro để xác định hồ sơ được hoàn trước kiểm tra sau và hồ sơ cần được kiểm tra trước khi hoàn, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa pháp luật về chính sách thuế và quản lý thuế. “Đề nghị không nên bỏ mà cần hoàn thiện các quy định này trong dự thảo Luật.”, đại biểu Phạm Văn Hòa đề xuất.

Về trình tự, thủ tục hoàn thuế GTGT, đại biểu tỉnh Đồng Tháp đề nghị, cân nhắc bổ sung quy định công chức thuế chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi hồ sơ, tài liệu của người nộp thuế cung cấp trong từng lần hoàn thuế là chưa thật sự chuẩn xác. “Nếu quy định như vậy, có thể bỏ lọt trách nhiệm và bỏ lọt hành vi tiêu cực, làm mất đi hiệu lực trong công tác phòng, chống gian lận hóa đơn của thanh tra, điều tra, kiểm toán đã thực hiện trong thời gian qua…”, đại biểu Phạm Văn Hòa đặt vấn đề.

Nguyên Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thuế, Chủ tịch Hội Tư vấn Thuế Việt Nam Nguyễn Thị Cúc 

Quan tâm tới quy định tại dự thảo luật dưới góc độ nghiên cứu và hoạt động thực tiễn, Chủ tịch Hội tư vấn thuế Nguyễn Thị Cúc cho biết, về thời gian hoàn thuế đối với dự án đầu tư, tại khoản 2, Điều 14 dự thảo Luật quy định: Trường hợp dự án đầu tư đã hoàn thành (bao gồm cả dự án đầu tư chia thành nhiều giai đoạn, hạng mục đầu tư có giai đoạn….) nhưng cơ sở kinh doanh chưa thực hiện hoàn thuế GTGT phát sinh trong giai đoạn đầu tư (hạng mục đầu tư, giai đoạn đầu tư đã hoàn thành) thì cơ sở kinh doanh thực hiện hoàn thuế GTGT theo quy định trong thời hạn 1 năm kể từ ngày dự án đầu tư hoặc ngày giai đoạn đầu tư, hạng mục đầu tư hoàn thành. Cơ sở kinh doanh không được hoàn thuế, được khấu trừ vào kỳ tiếp theo nếu quá 1 năm kể từ ngày dự án đầu tư hoặc ngày giai đoạn đầu tư, hạng mục đầu tư hoàn thành…

Về thời gian quá 01 năm không được hoàn thuế theo Chủ tịch Hội tư vấn thuế Nguyễn Thị Cúc là ngắn, đề nghị cân nhắc để đảm bảo quyền lợi của người nộp thuế cũng như tương ứng với quy định thời gian hoàn thuế GTGT của Luật Quản lý thuế. "Do việc hoàn thuế chậm gây thiệt hại cho người nộp thuế. Luật quản lý thuế hiện hành cũng tạo thêm điều kiện thuận lợi cho người  nộp thuế hơn, ví dụ: khai thuế sai sót, bổ sung trong thời hạn 10 năm… Tuy nhiên cũng cần có quy định thời hạn hoàn thuế cụ thế. Do đó, có thể vận dụng thời hạn tương tự như truy thu, tủy hoàn của Luật quản lý thuế với thời gian là 5 năm", Chủ tịch Hội tư vấn thuế Nguyễn Thị Cúc đề xuất.

Ở góc độ khác, liên quan đến các trường hợp được hoàn thuế Ths. Nguyễn Thị Hải Bình, Trưởng Ban Nghiên cứu và Điều phối chính sách giám sát, Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia đề nghị, giữ nguyên quy dịnh tại điểm a, khoản 2, Điều 14 Luật thuế GTGT hiện hành về việc không được hoàn thuế nếu không góp đủ vốn điều lệ như đã đăng ký để thực hiện dự án. "Doanh nghiệp hoàn thuế GTGT đối với dự án đầu tư thì phải đảm bảo thực hiện đúng các quy định của Luật Đầu tư và các Luật có liên quan, doanh nghiệp chưa góp đủ vốn góp để thực hiện dự án thì chưa đảm bảo về năng lực tài chính để thực hiện dự án đầu tư.", Ths. Nguyễn Thị Hải Bình nêu quan điểm.

Bên cạnh đó, tại khoản 2 Điều 14 dự thảo Luật Thuế GTGT (sửa đổi), Ths. Nguyễn Thị Hải Bình đề nghị quy định rõ trường hợp quá thời hạn 01 năm kể từ ngày dự án đầu tư hoặc ngày giai đoạn đầu tư, hạng mục đầu tư hoàn thành mà cơ sở kinh doanh chưa thực hiện hoàn thuế GTGT thì có được tiếp tục khấu trừ thuế GTGT hay không?. Ngoài ra, cần quy định rõ ngày dự án đầu tư hoàn thành là ngày phát sinh doanh thu của dự án đầu tư hoặc ngày phát sinh doanh thu của hạng mục, giai đoạn đầu tư (không tính doanh thu từ sản phẩm, phế phẩm phát sinh trong quá trình vận hành thử dự án, hạng mục dự án, giai đoạn đầu tư)./.

Lê Anh

Các bài viết khác