Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quốc Bình- TP. Hà Nội: Luật chuyển giao công nghệ phải tạo ra khung pháp lý nhằm phát triển nội lực nắm bắt và chuyển giao công nghệ

24/11/2016

Trong phiên họp toàn thể tại Hội trường, Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV về dự án Luật chuyển giao công nghệ (sửa đổi) chiều 22/11, đại biểu Quốc hội Nguyễn Quốc Bình- TP. Hà Nội bày tỏ cơ bản nhất trí với dự thảo luật, đại biểu Nguyễn Quốc Bình cho rằng Dự thảo Luật chuyển giao công nghệ (sửa đổi) đã đề cập và giải quyết đầy đủ các vấn đề bất cập thực tiễn mà luật 2006 còn bộc lộ hạn chế như thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyển giao công nghệ lấy doanh nghiệp làm trung tâm, tạo điều kiện bảo hộ trí tuệ và có thể thẩm định giá bằng tài sản, kiểm soát việc công nghệ lỗi thời, kiểm soát hợp đồng chuyển giao công nghệ và thẩm định công nghệ v.v...

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Quốc Bình - TP. Hà Nội phát biểu tại Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIV

Đại biểu Nguyễn Quốc Bình phân tích nội dung cốt lõi về chuyển giao công nghệ cần được thể hiện rõ ràng, chặt chẽ, thuyết phục và khả thi hơn trong luật là tạo ra khung pháp lý để phát triển năng lực, nội lực trong nắm bắt và chuyển giao công nghệ. Theo đại biểu, nội lực này nằm trong 4 khía cạnh then chốt.

Một là, năng lực trong nước thích ứng làm chủ sáng tạo và chuyển giao công nghệ của các viện, trung tâm nghiên cứu, trường đại học và các doanh nghiệp khoa học, công nghệ. Đây là thành phần trung tâm của nội lực công nghệ quốc gia và cũng là điểm yếu rõ rệt của Việt Nam so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, đại biểu chỉ ra rằng lớp đối tượng này trong dự thảo chưa đề cập tới. Tại Điều 5 chính sách của nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ, dự thảo luật đã điều chỉnh chú trọng tới việc chuyển giao công nghệ trong các ngành, các lĩnh vực hướng tới các sản phẩm chủ lực mà Việt Nam có thế mạnh phát triển các sản phẩm quốc gia, tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ để hạn chế, ngăn chặn công nghệ lạc hậu, công nghệ ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh, môi trường và phát triển bền vững của quốc gia nhưng chưa có chính sách cụ thể nào thúc đẩy năng lực sáng tạo và chuyển giao công nghệ của chính lực lượng trong nước. Do vậy, đại biểu đề nghị bổ sung chính sách khuyến khích và thúc đẩy mạnh mẽ năng lực sáng tạo và chuyển giao công nghệ nội tại của các lực lượng, viện, trường, đơn vị nghiên cứu trong nước, đầu tư thích đáng cho các công trình sáng tạo tầm cỡ tạo ra bí quyết công nghệ quốc gia, không phải nghiên cứu theo định mức, sau đó cất vào và lưu trữ như hiện nay. Bên cạnh đó, cần gắn trách nhiệm với sự tồn tại một cách rõ ràng, chứ không bao cấp.

Hai là, làm rõ năng lực đánh giá thẩm định công nghệ của các cơ quan, tổ chức chuyên môn có thẩm quyền và chuyên nghiệp, năng lực đánh giá thẩm định của các loại công nghệ du nhập vào nước ta từ nhiều nguồn, chủ yếu là từ các dự án FDI và doanh nghiệp tự mua. Đại biểu Nguyễn Quốc Bình nêu rõ, thực tế 10 năm qua cho thấy vì kém về năng lực nên chúng ta đã để lọt nhiều công nghệ lạc hậu vào nước ta gây hậu quả nghiêm trọng về ô nhiễm môi trường, an ninh xã hội như các dự án sản xuất thép, bôxít, xi măng, nhiệt điện v.v... Dự thảo luật sửa đổi đề cập đến nội dung này nhưng chưa đủ mạnh, thiếu bộ tiêu chuẩn đánh giá công nghệ, thiếu bộ tiêu chuẩn về năng lực của các tổ chức đánh giá thẩm định công nghệ và còn thiếu cơ chế kiểm tra chéo để đảm bảo không có khe hở cho những đối tượng vì ham lợi vẫn cố tình lách luật. Đại biểu đề nghị cần bổ sung bộ tiêu chuẩn về công nghệ làm cơ sở để việc đánh giá, thẩm định và đảm bảo cho việc chuyển giao công nghệ một cách lâu dài không bị lỗi thời. Cụ thể, bổ sung bộ tiêu chuẩn về công nghệ vào Điều 12 thẩm định kiểm tra và dự án công nghệ trong dự án đầu tư và bổ sung tiêu chuẩn năng lực của tổ chức đánh giá thẩm định công nghệ vào Điều 34 tổ chức đánh giá, định giá và giám định công nghệ để khắc phục tình trạng nói trên.

Ba là, chưa rõ việc khuyến khích năng lực tiếp thu ứng dụng chuyển giao công nghệ nội tại vào thực tiễn mang lại hiệu quả cao. Đại biểu Nguyễn Quốc Bình cho biết công nghệ đưa vào thực tiễn ở nước ta có hai nguồn từ nước ngoài và từ các viện, trường, trung tâm nghiên cứu trong nước và dù từ nguồn nào thì việc nâng cao năng lực làm chủ công nghệ của lực lượng sử dụng chủ yếu doanh nghiệp, cụ thể năng lực nội tại nắm vững và tiếp thu ứng dụng công nghệ vào thực tế sản xuất quản lý của mình một cách hiệu quả có ý nghĩa quyết định. Nội dung này được đề cập nhiều trong dự thảo từ Điều 35 đến Điều 51 nhưng chưa rõ các chính sách đủ mạnh và khả thi nhằm khuyến khích thúc đẩy năng lực tiếp thu chuyển giao công nghệ nội tại vào thực tiễn.

Điều 39 của dự thảo về chương trình đổi mới công nghệ quốc gia, Mục c có ghi: “Tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhỏ và vừa ứng dụng công nghệ, kết quả nghiên cứu khoa học đổi mới công nghệ”. Theo đại biểu Nguyễn Quốc Bình, đây là một câu rất chung chung và khó thực hiện, vì việc đổi mới công nghệ ở doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 98% tổng số doanh nghiệp của nước ta có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế. Do đó, đại biểu đề nghị đổi nội dung này thành "nâng cao năng lực làm chủ công nghệ, ứng dụng chuyển giao công nghệ vào thực tiễn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ". Đồng thời, đề nghị bổ sung cụ thể hóa nội dung này một cách rõ nét hơn, ví dụ như chính sách đặt hàng của nhà nước, chính sách hỗ trợ đăng ký bản quyền, chính sách thưởng các ứng dụng sáng tạo, chính sách miễn giảm thuế thu nhập cá nhân v.v...

Bốn là, dự thảo luật chưa xác định vai trò khuyến khích công nghệ nguồn mở. Hiện nay công nghệ nguồn mở đã dẫn trước các công nghệ nguồn đóng trong lĩnh vực phần mềm và đang phát triển sang các lĩnh vực phần cứng trong công nghệ thông tin hay máy móc nông nghiệp, cơ khí sản xuất ô tô. Việc khuyến khích phát triển công nghệ nguồn ở gắn liền với sáng tạo mở tại Việt Nam và yêu cầu các công nghệ chuyển giao phải ưu tiên nguồn mở và phải ưu tiên hơn các công nghệ nguồn mở là điều kiện cần thiết phải làm. Bởi công nghệ nguồn mở là tài sản trí tuệ của thế giới được công bố và công khai để các nước cùng nghiên cứu ứng dụng, hợp tác phát triển. Việc đi vào nguồn mở một cách mạnh mẽ nhằm nâng cao năng lực phát triển bản địa hóa các công nghệ nguồn mở phổ biến trên thế giới là con đường làm chủ công nghệ hợp lý, nhanh và tiết kiệm nhất để nâng cao năng lực và lan tỏa ứng dụng công nghệ. Đại biểu nhấn mạnh cần coi đây là một chính sách ưu tiên hàng đầu trong chuyển giao công nghệ trong giai đoạn tới, trong tình hình hội nhập toàn cầu hóa mới khi các hãng công nghệ dễ dàng mở chi nhánh tại Việt Nam. Do vậy, đại biểu đề nghị bổ sung Điều 9 công nghệ được khuyến khích chuyển giao thêm Mục 9, công nghệ nguồn mở và bổ sung nội dung này ở các Điều 35, 39, 40, 46, 53 cho phù hợp.

Bảo Yến