Error

Web Part Error: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe. Correlation ID: 157767a1-2968-90f0-dd35-d2a8bdf13021.

Error Details:
[UnsafeControlException: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe.]
  at Microsoft.SharePoint.ApplicationRuntime.SafeControls.GetTypeFromGuid(Boolean isAppWeb, Guid guid, Guid solutionId, Nullable`1 solutionWebId, String assemblyFullName, String typeFullName, Boolean throwIfNotSafe)
  at Microsoft.SharePoint.WebPartPages.SPWebPartManager.CreateWebPartsFromRowSetData(Boolean onlyInitializeClosedWebParts)

ĐBQH TRẦN VĂN TIẾN: CẦN NGHIÊN CỨU CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH NHẰM TẠO ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI CHO DOANH NGHIỆP VÀ NGƯỜI DÂN PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT KINH DOANH

26/02/2021

Tham gia thảo luận ý kiến tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV, đại biểu Quốc hội Trần Văn Tiến, Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc đề nghị cần tập trung nghiên cứu cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân phát triển sản xuất kinh doanh, vì đây là những đối tượng chịu thiệt hại trực tiếp nhất và nhiều nhất trong dịch bệnh.

Đại biểu Quốc hội Trần Văn Tiến , Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc phát biểu tại phiên họp

Tại phiên họp, tham gia ý kiến về việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2020, đại biểu Quốc hội Trần Văn Tiến, Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc cho rằng năm 2020 là năm gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là đại dịch COVID- 19 và thiên tai biến đổi khí hậu đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho nền kinh tế, thiệt hại nhiều tài sản và tính mạng của nhân dân. Sản xuất kinh doanh bị đình trệ, nhiều chỉ tiêu kinh tế - xã hội và ngân sách không đạt, một bộ phận người lao động bị mất việc làm, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn, v.v.. Bên cạnh những hạn chế của nền kinh tế năm 2020, kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước vẫn đạt được nhiều kết quả và có nhiều điểm sáng được ghi nhận. Cụ thể, dịch bệnh được kiểm soát, tạo điều kiện thuận lợi cho phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội. Việt Nam là nước thuộc nhóm các nước có số người mắc bệnh và tử vong thấp nhất nên được cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao. Tăng trưởng kinh tế vẫn đạt trên 2% trong khi hầu hết các nước trong khu vực và thế giới đều có tăng trưởng âm. Kinh tế vĩ mô được duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức dưới 4% đạt mục tiêu đề ra. Khu vực nông lâm thủy sản tiếp tục tăng trưởng cao và cao hơn năm 2019, là trụ đỡ của nền kinh tế trong thời điểm khó khăn đã góp phần giữ vững ổn định trật tự, an toàn xã hội. Xuất khẩu khu vực kinh tế trong nước tăng cao khoảng 20,2%, khẳng định kinh tế khu vực trong nước mặc dù khó khăn nhưng vẫn tiếp tục phát triển. Một số khoản thu ngân sách nhà nước tăng cao như thu từ nhà đất, thu cổ tức, lợi nhuận sau thuế, v.v. tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Giải ngân vốn đầu tư đạt tỷ lệ cao nhất trong 5 năm trở lại đây. Xử lý nợ xấu hàng tháng tăng gần 2 lần so với trước khi có Nghị quyết 42. Tỷ lệ nợ xấu dưới mức 3%. Giáo dục, đào tạo đã nỗ lực thực hiện tốt mục tiêu kép trong việc dạy và học. Đặc biệt, đã tổ chức thành công kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông và tuyển sinh đại học được an toàn. Tỷ lệ hộ nghèo tiếp tục được giảm và đạt mục tiêu là nhờ có chính sách hỗ trợ, chính sách an sinh xã hội được ban hành kịp thời. Đại biểu Trần Văn Tiến nhận định, có được kết quả trên là do có sự quyết tâm cao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp. Kết quả trên cũng đã củng cố thêm niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và điều hành đất nước.

Đóng góp ý kiến về dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2021, đại biểu đưa ra một số nội dung về các chỉ tiêu chủ yếu như sau: Sự thay đổi về loại chỉ tiêu, cụ thể thay 5 chỉ tiêu mới cho 5 chỉ tiêu thường dùng trước đây, đồng thời số lượng chỉ tiêu giữa các lĩnh vực cũng có sự thay đổi. Đại biểu đề nghị trong báo cáo nêu rõ lý do của sự thay đổi này. Chỉ tiêu tăng trưởng GDP dự kiến 6% là cao vì tình hình dịch bệnh khó lường, thiên tai biến đổi khí hậu đang xảy ra trên diện rộng, gây thiệt hại nặng nề ở hầu hết các tỉnh. Cần xem xét lại chỉ tiêu này cho hợp lý. Chỉ tiêu về quy mô GDP bình quân đầu người dự kiến đạt khoảng 3.700 USD là quá cao vì năm 2020 bình quân mới đạt 2.750 USD. Đại biểu đề nghị xem lại tính khả thi của chỉ tiêu này. Chỉ tiêu tốc độ tăng năng suất lao động xã hội khoảng 4,8%, chỉ tiêu này thấp hơn so với năm 2019 và năm 2020. Đại biểu đề nghị cân nhắc thêm trong khi ta đang áp dụng và đổi mới các tiến bộ khoa học, công nghệ. Chỉ tiêu về tỷ lệ che phủ rừng không tăng bằng số liệu năm 2020. Đại biểu đề nghị xem lại chỉ tiêu này. Đại biểu đề nghị bổ sung chỉ tiêu, mức tiêu hao năng lượng trên đơn vị GDP. Theo đại biểu, đây là chỉ tiêu quan trọng, chỉ tiêu này phản ánh kết quả của việc đổi mới công nghệ, đổi mới quy trình sản xuất và áp dụng các sáng kiến cải tiến kỹ thuật để giảm mức tiêu hao năng lượng trong sản xuất, kinh doanh, phản ánh sự thay đổi cấu trúc của nền kinh tế có thể giảm mức tiêu hao năng lượng so với GDP bằng cách hạn chế các ngành hoạt động tiêu tốn năng lượng và phát triển ngành hoạt động ít tiêu hao năng lượng hơn.

Bên cạnh đó, về nhiệm vụ và giải pháp, đại biểu đồng tình với nhiệm vụ và giải pháp như báo cáo nêu một số vấn đề tham khảo:

Một, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp và người dân phát triển sản xuất, cần tập trung nghiên cứu cơ chế, chính sách nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân phát triển sản xuất kinh doanh, vì đây là những đối tượng chịu thiệt hại trực tiếp nhất và nhiều nhất.

Hai, tập trung nguồn lực, xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù để hỗ trợ, cứu trợ người dân vùng bị thiệt hại bão lũ, khắc phục khó khăn, ổn định cuộc sống để tiếp tục sản xuất kinh doanh như tái định cư nhà ở, đất sản xuất, công cụ sản xuất giống và vốn, v.v..

Ba, nhà nước cần thiết phải đầu tư mua sắm phương tiện, máy móc, trang thiết bị dự trữ quốc gia để đáp ứng nhu cầu ứng cứu khẩn cấp khi xảy ra trong bất cứ tình huống nào. Tránh tình trạng sau nhiều ngày xảy ra sự cố vẫn không tiếp cận, ứng cứu kịp thời đối với các vùng khu vực bị cô lập./.

Minh Hùng