Theo đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) nhận được chất vấn của Đại biểu Nguyễn Thị Kim Thúy tại văn bản số 1451/TTKQH-GS ngày 20/11/2017, về việc các doanh nghiệp trong nước có được phép thành lập công ty con là ngân hàng thương mại hoặc công ty tài chính; về hoạt động của các tổ chức tín dụng; giải pháp xử lý tồn tại, hạn chế của hệ thống các tổ chức tín dụng thời gian tới.
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Kim Thúy, Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Đà Nẵng
Về vấn đề này, ngày 11/12/2017, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Lê Minh Hưng đã trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thị Kim Thúy, Đoàn đại biểu Quốc hội Thành phố Đà Nẵng như sau:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, các doanh nghiệp trong nước không đươc phép thành lập công ty con là ngân hàng thương mại hoặc công ty tài chính. Đồng thời, Luật các tổ chức tín dụng 2010 và các văn bản hướng dẫn Luật có nhiều quy định ngăn ngừa, hạn chế sự lạm dụng quyền quản trị, điều hành, cổ đông lớn tại các TCTD phục vụ cho các lợi ích liên quan và bảo đảm an toàn, minh bạch trong hoạt động ngân hàng. Cụ thể:
Bổ sung nhiều quy định ngăn ngừa khả năng lũng đoạn hoạt động ngân hàng của các cá nhân, tổ chức là cổ đông lớn, hạn chế xung đột lợi ích tiềm tàng, như:
Thứ nhất, bắt buộc đại chúng hóa cơ cấu cổ đông của các NHTM cổ phần với các quy định: (i) Ngân hàng thương mại trong nước (trừ NHTM nhà nước - ngân hàng thương mại do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ) phải được thành lập dưới hình thức ngân hàng thương mại cổ phần; (ii) Giảm mức giởi hạn sở hữu cổ phần đối với cổ đông là cá nhân từ 10% xuống 5%, cổ đông là pháp nhân từ 20% xuống 15% (trừ trường hợp sở hữu cổ phần theo quyết định của Ngân hàng Nhà nước để xử lý tổ chức tín dụng gặp khó khăn, bảo đảm an toàn hệ thống tổ chức tín dụng, sở hữu cổ phần nhà nước tại các tổ chức tín dụng cổ phần hóa, sở hữu cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài); (iii) Một cổ đông và những người có liên quan của cổ đông này không được sở hữu vượt quá 20% vốn điều lệ của một tổ chức tín dụng. Các tỷ lệ giới hạn sở hữu này bao gôm cả phần vốn ủy thác cho các tổ chức, cá nhân khác mua cổ phần nhằm hạn chế việc sở hữu cổ phần một cách gián tiếp.
Như vậy, Luật các TCTD không cho phép thành lập TCTD tư nhân tại Việt Nam và đại chúng hóa cơ cấu cổ đông của TCTD cổ phần, qua đó không cho phép một cổ đông hoặc nhóm cổ đông liên quan nắm giữ cổ phần chi phối của một TCTD.
Thứ hai, bổ sung thêm các trường hợp không được cấp tín dụng, hạn chế cấp tín dụng. Theo đó, TCTD không được cấp tín dụng hoặc nhận bảo đảm để cấp tín dụng hoặc thực hiện việc bảo đảm để TCTD khác cấp tín dụng cho (i) Thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc của TCTD, pháp nhân là cổ đông có người đại diện phần vốn góp là thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiếm soát của TCTD cổ phần, pháp nhân là thành viên góp vốn, chủ sở hữu của TCTD; (ii) Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên HĐQT Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc cua TCTD.
Cấm TCTD không được cấp tín dụng cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh chứng khoán mà TCTD nắm quyền kiểm soát; không được cấp tín dụng trên cơ sở cầm cố bằng cổ phiếu của chính TCTD hoặc công ty con của TCTD; không được cho vay để góp vốn vào một TCTD khác trên cơ sở nhận tài sản bảo đảm bằng cổ phiếu của chính TCTD nhận vốn góp.
Quy định cụ thể những trường hợp hạn chế cấp tín dụng. Trong đó, TCTD không được cấp tín dụng không có bảo đảm, cấp tín dụng với điều kiện ưu đãi đối với: (i) cổ đông lớn, cổ đông sáng lập, thành viên góp vốn; (ii) doanh nghiệp có một trong những đối tượng bị cấm cấp tín dụng theo quy định tại khoản 1 Điều 126 Luật các TCTD sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó; (iii) công ty con, công ty liên kết của TCTD hoặc doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền kiểm soát. Đồng thời, quy định các giới hạn về tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với các đối tượng nêu trên nhằm tránh trường hợp TCTD bị ảnh hưởng khi công ty con, công ty liên kết của TCTD hoặc doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền kiếm soát gặp rủi ro hoặc sự cố.
Đây là những quy định quan trọng khắc phục thực trạng cổ đông lớn, người quản trị, điều hành của TCTD lạm dụng ảnh hưởng của mình để cấp tín dụng cho các “doanh nghiệp sân sau”.
Thứ ba, giới hạn số lượng người liên quan tham gia Hội đồng quản trị của TCTD cổ phần nhằm hạn chế cổ đông lớn, nhóm cổ đông liên quan chi phối hoạt động của TCTD. Theo đó, một cá nhân và những người có liên quan của cá nhân này hoặc những người đại diện vốn góp của một cổ đông là tổ chức và người có liên quan của những người này không được tham gia quá 1/3 tổng số thành viên của Hội đồng quản trị của một TCTD.
Bổ sung các quy định nhằm nâng cao năng lực quản trị, điều hành của TCTĐ, nhất là năng lực quản trị rủi ro
Thứ nhất, bổ sung quy định nâng cao yêu cầu đối với người quản lý, điều hành của TCTD nhằm chuyên nghiệp hóa, tách biệt công tác quản trị và điều hành TCTD, nâng cao tính độc lập trong các quyết định của Hội đồng quản trị. Trong đó có các quy định về tiêu chuẩn, điều kiện đối với người quản lý, người điều hành, thành viên Ban kiểm soát, các quy định về tiêu chuẩn đối với thành viên độc lập của Hội đồng quản trị; các trường hợp không cùng đảm nhiệm chức vụ nhằm tránh xung đột lợi ích, lạm dụng quyền ảnh hưởng của mình để ra những quyết định xung đột với lợi ích của tổ chức tín dụng; quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người quản lý, điều hành TCTD, trách nhiệm công khai các lợi ích liên quan.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Lê Minh Hưng
Thứ hai, bổ sung yêu cầu cao hơn đối với hoạt động kiểm toán độc lập để hỗ trợ hoạt động quản lý, bảo vệ quyền lợi của cổ đông, người gửi tiền, trong đó đáng chú ý là: (i) Quy định về việc lựa chọn kiểm toán độc lập phải được thực hiện trước khi năm tài chính được kiểm toán bắt đầu vì theo thông lệ quốc tế và yêu cầu của chuẩn mực kiểm toán, tổ chức kiểm toán phải tham dự các cuộc họp của Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát... để nắm bắt tình hình kinh doanh của TCTD suốt năm tài chính; (ii yêu cầu báo cáo kiểm toán không được có ý kiến ngoại trừ (qualified opinion) ) để bảo đảm đánh giá trung thực, chính xác tình hình hoạt động của TCTD”.
Sửa đổi, bổ sung nhiều nội dung quan trọng nhằm thực hiện nguyên tắc bảo đảm an toàn hệ thống trong hoạt động ngân hàng là một trong những mục tiêu hàng đầu
Thứ nhất, thay đổi quy định về giới hạn cấp tín dụng nhằm phản ánh chính xác hơn mức độ rủi ro tín dụng phụ thuộc vào khách hàng nhận tín dụng mà không phụ thuộc vào hình thức cấp tín dụng và ngăn ngừa rủi ro do tập trung tín dụng, cụ thể: (i) Khái niệm cấp tín dụng được làm rõ hơn, bao gồm tất cả các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác; (ii) Tổng mức giới hạn cấp tín dụng gồm cả tổng mức đầu tư vào trái phiếu do khách hàng là doanh nghiệp phát hành; (iii) Giảm mạnh giới hạn cấp tín dụng đối với một khách hàng cũng như đối với một khách hàng và những người có liên quan xuống mức tương ứng là 15%, 25% vốn tự có của ngân hàng thương mại; (iii) Quy định mở đối với các trường hợp đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà khả năng hợp vốn của các TCTD chưa đáp ứng được yêu cầu vay vốn của một khách hàng thì Thủ tướng Chính phủ có thể quyết định mức cấp tín dụng tối đa vượt qua các giới hạn quy định đối với từng trường hợp cụ thể; tuy nhiên, tổng các khoản cấp tín dụng vượt giới hạn không vượt quá 04 lần vốn tự có của TCTD.
Thứ hai, Quy định chặt chẽ hơn các giới hạn về góp vốn, mua cổ phần của ngân hàng thương mại: (i) Tỷ lệ giới hạn góp vốn, mua cổ phần của ngân hàng thương mại được tính trên cơ sở hợp nhất (bao gồm cả phần góp vốn, mua cổ phần của công ty con, công ty liên kết); (ii) Quy định cụ thể lĩnh vực kinh doanh, ngân hàng thương mại phải thành lập, mua lại công ty con, công ty liên kết với mục đích tách biệt rủi ro của các hoạt động này ra khỏi hoạt động kinh doanh của NHTM; (iii) Đối với lĩnh vực kinh doanh ngoài hoạt động kinh doanh chính của NHTM, NHTM chỉ được góp vốn tối đa 11% vốn điều lệ của doanh nghiệp nhận vốn góp và phải được NHNN chấp thuận trước khi thực hiện; (iv) Cấm TCTD góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp, TCTD khác là cổ đông, thành viên góp vốn của chính TCTD đó (cấm sở hữu chéo trực tiếp).
Thứ ba, bổ sung quy định về quyền và trách nhiệm của công ty kiểm soát (những công ty nắm giữ, sở hữu trực tiếp hoặc gián tiếp trên 20% vốn điều lệ của một NHTM) nhằm hạn chế các quan hệ tín dụng, hùn vốn, góp vốn chéo (góp vốn, mua cổ phần lẫn nhau) giữa TCTD với các công ty có quan hệ về vốn liếng, tránh rủi ro cho các NHTM do sự can thiệp quá mức của các công ty kiểm soát. Để đạt được mục đích này, Luật các TCTD 2010 đưa ra các quy định buộc phải minh bạch hoá các quan hệ giữa công ty kiểm soát với các NHTM, giữa NHTM với các công ty con của mình, không cho phép NHTM và các công ty con, liên kết của cùng một công ty kiểm soát được sở hữu chéo cổ phần; công ty con, công ty liên kết của cùng một TCTD không được góp vốn, mua cổ phần của TCTD; TCTD là công ty con, công ty liên kết của công ty kiểm soát không được góp vốn, mua cổ phần của công ty kiểm soát; yêu cầu các công ty con, công ty liên kết của TCTD phải gửi báo cáo tài chính, báo cáo hoạt động cho Ngân hàng Nhà nước khi được yêu cầu.
Thứ tư, trên cơ sở quy định của Luật các TCTD 2010, NHNN đã ban hành nhiều văn bản tạo lập khuôn khổ pháp lý nâng cao chất lượng quản trị điều hành, từng bước áp dụng các thông lệ, chuẩn mực ngân hàng quốc tế, tạo nền tảng cho các TCTD hoạt động an toàn, minh bạch, như:
Thông tư 39/2011/TT-NHNN về kiểm toán độc lập đối với TCTD, Thông tư 44/2011/TT-NHNN quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ của tổ chức tín dụng, Thông tư 36/2014/TT-NHNN quy định các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng, Thông tư 06/2015/TT-NHNN quy định về thời hạn, trình tự, thủ tục chuyển tiếp đối với trường hợp sở hữu cổ phần vượt giới hạn quy định tại điều 55 Luật các TCTD 2010... Trong đó, Thông tư 36 và 06 đã tạo bước tiến quan trọng, nâng cao các tiêu chuẩn an toàn, tăng cường hơn nữa sự minh bạch trong hoạt động của các TCTD, góp phần hạn chế tình trạng sở hữu chéo, thúc đẩy quá trình tái cơ cấu hệ thống.
Trước những khó khăn chung của nền kinh tế và nguy cơ đổ vỡ, mất an toàn của hệ thống các TCTD do chịu tác động lớn của khủng hoảng kinh tế thế giới từ năm 2008, NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015 (Quyết định số 254/QĐ-TTg ngày 01/03/2012). Sau 04 năm triển khai thực hiện, quá trình tái cơ cấu hệ thống các TCTD đã đạt được những kết quả quan trọng, trong đó tình trạng sở hữu, sở hữu chéo, nhóm cổ đông chi phối đã từng bước được kiểm soát. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn còn tiềm ẩn nhiều rủi ro do tình trạng chi phối, thao túng hoạt động ngân hàng chưa được xử lý triệt để, một số TCTD hoạt động thiếu công khai, minh bạch hoặc bị thao túng, chi phối bởi các cổ đông lớn, đặc biệt là trong việc cho vay, đầu tư tài chính phục vụ cho các công ty con, công ty sân sau của cổ đông lớn và người có liên quan.
Việc chưa xử lý triệt để được các tồn tại nêu trên, bên cạnh nguyên nhân khách quan từ nền kinh tế và nguyên nhân chủ quan từ các TCTD, có nguyên nhân từ những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý, thanh tra, giám sát của NHNN do khuôn khổ pháp lý về quản lý tổ chức và hoạt động của TCTD mặc dù đã được đổi mới nhưng còn chậm so với yêu cầu thực tiễn; năng lực, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng chưa cao. Việc chậm khắc phục những tồn tại, hạn chế trong công tác quản lý, thanh tra, giám sát của NHNN có trách nhiệm chỉ đạo, điều hành của Ban lãnh đạo NHNN và cá nhân Thống đốc NHNN với vai trò là người đứng đầu ngành Ngân hàng.
Nhận thức rõ vấn đề này, Ban lãnh đạo và cá nhân Thống đốc NHNN đã và đang nỗ lực chỉ đạo các đơn vị chức năng thuộc NHNN triển khai quyết liệt các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của NHNN, đặc biệt là công tác thanh tra, giám sát ngân hàng.
Trên cơ sở tổng kết, đánh giá kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế của hệ thống các TCTD sau 04 năm thực hiện Đề án Cơ cấu lại giai đoạn 2011-2015, Ngân hàng Nhà nước đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 (Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/07/2017) với 6 nhóm giải pháp tổng thể nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế và nâng cao chất lượng hoạt động, xử lý nhanh nợ xấu của hệ thống các TCTD. Theo đó, từng TCTD (bao gồm các công ty tài chính) phải xây dựng và tổ chức thực hiện Đề án cơ cấu lại phù hợp với đặc điểm hoạt động của mình để đạt được mục tiêu Đề án đã đặt ra.
Để tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý nhằm xử lý căn bản các tồn tại, hạn chế của hệ thống các TCTD trong thời gian tới, NHNN đã xây dựng, trình Chính phủ, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật các TCTD 2010, trong đó bổ sung các quy định nâng cao năng lực quản trị, điều hành của TCTD và hạn chế, ngăn ngừa triệt để sở hữu chéo. Cụ thể:
- Quy định chặt chẽ hơn các tiêu chuẩn, điều kiện của người quản trị, điều hành TCTD và bổ sung trường hợp không cùng đảm nhiệm chức vụ: Chủ tịch Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng thành viên, Tổng giám đốc (Giám đốc) của tổ chức tín dụng không được đồng thời là Chủ tịch Hội đồng quản trị, thành viên Hội đồng quản trị, Chủ tịch Hội đồng thành viên, thành viên Hội đồng thành viên, Chủ tịch công ty, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám đốc) hoặc các chức danh tương đương của doanh nghiệp khác. Yêu cầu TCTD phải thông báo cho NHNN các thông tin về lợi ích liên quan của người quản trị, người điều hành của TCTD. Các quy định này sẽ hạn chế việc lạm dụng quyền cổ đông lớn cho lợi ích liên quan, một số lãnh đạo ngân hàng đang đồng thời là chủ các doanh nghiệp khác sẽ buộc phải lựa chọn hoặc làm chủ doanh nghiệp, hoặc làm chủ ngân hàng.
- Sửa đổi, bổ sung các quy định về không được cấp tín dụng, hạn chế cấp tín dụng, giới hạn cấp tín dụng và một số quy định góp phần minh bạch hóa nguồn vốn góp, đầu tư vào TCTD, hạn chế tình trạng sở hữu chéo, như: (i) Cổ đông phải chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của nguồn vốn góp, mua, nhận chuyển nhượng cổ phần tại TCTD; (ii) Cổ đông không được sử dụng nguồn vốn do TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cấp tín dụng để mua, nhận chuyển nhượng cổ phần của TCTD và không được góp vốn, mua cổ phần của TCTD dưới tên của cá nhân, pháp nhân khác dưới mọi hình thức; (iii) Cổ đông lớn và người có liên quan tại một TCTD không được sở hữu từ 5% vốn điều lệ tại TCTD khác.
Trong thời gian tới đây, NHNN sẽ tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành liên quan tiếp tục triển khai đồng bộ các giải pháp nêu tại Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 và các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của NHNN nhằm khắc phục triệt để các tồn tại, hạn chế của hệ thống các TCTD, trong đó chú trọng các biện pháp khắc phục tình trạng chi phối, thao túng hoạt động ngân hàng, như:
(i) Tổ chức triển khai có kết quả các quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14 và Luật số 17/2017/QH14 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng 2010.
(ii) Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các quy định của pháp luật về góp vốn, sở hữu vốn, chuyển nhượng vốn, đầu tư tài chính, cho vay đầu tư, kinh doanh cổ phiếu; nâng cao hiệu quả giám sát cổ đông và người có liên quan của cổ đông trong việc sở hữu, chuyển nhượng cổ phần của TCTD và việc vay vốn của các đối tượng này để phát hiện, ngăn chặn, cảnh báo và xử lý những rủi ro và vi phạm; kiên quyết xử lý nghiêm các TCTD vi phạm quy định của pháp luật về cấp tín dụng, góp vốn, sở hữu, chuyển nhượng vốn...
(iii) Đẩy mạnh việc thoái vốn đầu tư ngoài ngành, kiểm soát tình trạng sở hữu chéo, nhóm cổ đông chi phối, như:
- Tiếp tục phối hợp với các cổ đông lớn, đặc biệt cổ đông là tập đoàn, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước để xây dựng và thực hiện quyết liệt, dứt điểm, đúng lộ trình, phương án thoái vốn theo đúng chỉ đạo, định hướng của Chính phủ về sở hữu cổ phần tại các TCTD. Trong đó, các tập đoàn kinh tế, tổng công ty, doanh nghiệp nhà nước phải thoái vốn đầu tư, chấm dứt kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng và chịu trách nhiệm xử lý các hậu quả có liên quan đến TCTD thuộc trách nhiệm của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.
- Chỉ đạo quyết liệt việc thoái vốn đối với TCTD phi ngân hàng yếu kém thuộc NHTM Nhà nước, không có triển vọng phát triển bền vững hoặc không đề xuất được Phương án tái cơ cấu khả thi hoặc không có khả năng thực hiện các Phương án đã được phê duyệt. Đối với các TCTD phi ngân hàng yếu kém khác, nếu không phục hồi được theo các quy định của pháp luật sẽ phải áp dụng các biện pháp sáp nhập, hợp nhất, mua lại, xử lý pháp nhân...