Error

Web Part Error: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe. Correlation ID: ea8364a1-e98a-90f0-19a0-54077fdab630.

Error Details:
[UnsafeControlException: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe.]
  at Microsoft.SharePoint.ApplicationRuntime.SafeControls.GetTypeFromGuid(Boolean isAppWeb, Guid guid, Guid solutionId, Nullable`1 solutionWebId, String assemblyFullName, String typeFullName, Boolean throwIfNotSafe)
  at Microsoft.SharePoint.WebPartPages.SPWebPartManager.CreateWebPartsFromRowSetData(Boolean onlyInitializeClosedWebParts)

ĐBQH ĐẶNG THUẦN PHONG: CHẤT VẤN BỘ TRƯỞNG BỘ GTVT VỀ HƯỚNG GIẢI QUYẾT 02 DỰ ÁN TRỌNG ĐIỂM ĐƯỜNG SẮT

18/10/2019

Tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV, đại biểu Đặng Thuần Phong, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre đã có chất vấn Bộ Giao thông vận tải về hướng giải quyết đối với 02 dự án trọng điểm, chậm tiến dộ, đội vốn lớn, chất lượng đáng lo lắng là Dự án đường sắt Bến Thành – Suối Tiên Tp. Hồ Chí Minh và Dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh – Hà Đông. Trách nhiệm thuộc về ai?

Đại biểu Đặng Thuần Phong, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bến Tre

Ngày 31 tháng 7 năm 2019, Bộ Giao thông vận tải đã có Văn bản số 7122/BGTVT-CQLXD trả lời chất vấn của đại biểu. Tại văn bản trả lời chất vấn nêu rõ:

1. Đối với dự án đường sắt đô thị thành phố Hồ Chí Minh, tuyến Bến Thành – Suối Tiên:

Đây là Dự án trọng điểm có quy mô lớn do UBND thành phố Hồ Chí Minh là cơ quan chủ quản đầu tư và là cấp quyết định đầu tư Dự án; quá trình triển khai cũng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc phải điều chỉnh tổng mức đầu tư và gia hạn thời gian thực hiện Dự án. Với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về giao thông vận tải, Bộ Giao thông vận tải đã thường xuyên, chủ động phối hợp chặt chẽ với UBND thành phố Hồ Chí Minh và các Bộ, Ngành liên quan tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện dự án. Chất vấn của Đại biểu Quốc hội sẽ được Bộ Giao thông vận tải chuyển đến UBND thành phố Hồ Chí Minh để có ý kiến trả lời cụ thể về hướng giải quyết đảm bảo tiến dộ, chất lượng Dự án.

Về trách nhiệm: Căn cứ Luật Xây dựng ngày 18/6/2014 của Quốc hội; Nghị định 46/2015/NĐ-CP ngày 12/5/2015 và Nghị định số 59/2015/NĐ-CP ngày 18/6/2015 của Chính phủ, trách nhiệm chính thuộc về UBND thành phố Hồ Chí Minh, Ban Quản lý dự án Đường sắt đô thị thành phố Hồ Chí Minh (cấp Quyết định đầu tư, Chủ đầu tư Dự án) và Nhà thầu thi công Dự án. Bên cạnh đó, còn có trách nhiệm quản lý nhà nước về đầu tư xây dựng công trình thuộc về các bộ, ngành liên quan, trong đó có trách nhiệm của Bộ Giao thông vận tải về công tác quản lý chuyên ngành.

Thời gian tới, Bộ Giao thông vận tải sẽ phối hợp chặt chẽ với UBND thành phố Hồ Chí Minh và các Bộ, ngành liên quan để kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc (khi có yêu cầu), đồng thòi thường xuyên cập nhật, theo dõi Dự án theo đúng chức năng nhiệm vụ được giao.

2. Đối với dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh –Hà Đông.

Dự án đường sắt đô thị Hà Nội, tuyến Cát Linh – Hà Đông được đầu tư xây dựng bằng vốn vay ODA của Chính phủ Trung Quốc theo Hiệp định khung ký ngày 30/5/2008. Trong đó, Dự án được thực hiện theo hình thức hợp đồng EPC, Tổng thầu EPC do Bên tài trợ vốn chỉ định là Công ty Hữu hạn Tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc làm Tổng thầu. Tư vấn giám sát được tổ chức đấu thầu, đơn vị trúng thầu là Công ty TNHH Giám sát xây dựng Viện nghiên cứu thiết kế công trình đường sắt Bắc Kinh. Quá trình triển khai thực hiện Dự án chậm, tăng tổng mức đầu tư do nhiều nguyên nhân bao gồm cả chủ quan và khách quan một số nguyên nhân chính như sau:

- Về nguyên nhân chủ quan:

(1) Thiết kế cơ sở ban đầu còn sơ sài, chưa lường hết được quy mô, tính chất, công năng, nên phải điều chỉnh tại bước thiết kế kỹ thuật;

(2) Chờ Nhà Tài trợ phê duyệt hợp đồng, cấp hiệu lực cho Hiệp định vay vốn bổ sung kéo dài;

(3) Ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc (China Eximbank) là cơ quan quản lý, cung cấp nguồn vốn vay không thiết lập đại diện thường trú tại Việt Nam, ảnh hưởng đến hiệu quả điều hành cấp vốn thực hiện Dự án;

(4) Tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc (Tổng thầu EPC) chưa có kinh nghiệm trong triển khai thực hiện Dự án tổng thể theo hình thức hợp đồng EPC, đồng thời chưa thực hiện theo đúng cam kết về tiến độ;

(5) Cách thức triển khai thực hiện Dự án ở mỗi nước có sự khác biệt, đặc biệt là cách thức lập Hồ sơ thiết kế, Hồ sơ nghiệm thu thanh toán; trong khi đây là lần đầu tiên Tổng thầu Trung Quốc thực hiện dự án tại Việt Nam dẫn đến công tác quản lý điều hành của Tổng thầu còn nhiều lúng túng và bất cập;

(6) Công tác giải ngân của Hiệp định vay bổ sung gặp nhiều vướng mắc do các bên chưa thống nhất được ý kiến pháp lý (Hiệp định vay bổ sung được ký kết từ 11/5/2017 nhưng đến 28/12/2017 các bên mới thống nhất được ý kiến pháp lý và đến ngày 25/4/2018 mới thống nhất được 13 điều kiện cho lần giải ngân đầu tiên của dự án).

- Về nguyên nhân khách quan:

(1) Công tác GPMB tại trung tâm thành phố Hà Nội rất chậm và phức tạp, không đáp ứng được yêu cầu của công tác khảo sát thiết kế kỹ thuật;

(2) Do yếu tố khác biệt về quy định giữa hai quốc gia về các tiêu chuẩn kỹ thuật, quy trình, quy phạm trong bước thiết kế, thi công và dự toán gây khó khăn trong công tác điều hành, tổ chức thực hiện;

(3) Hệ thống quy định của pháp luật hiện hành của Việt Nam về thực hiện hợp EPC chưa đầy đủ, đồng bộ, đặc biệt là quy định về tính trọn gói giữa các yếu tố kỹ thuật, tài chính, thủ tục, thẩm quyền phê duyệt điều chỉnh Dự án;

(4) Sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan HD981 trong thềm lục địa của Việt Nam đầu tháng 5/2014 ảnh hưởng trực tiếp đến thực hiện dự án (mất hơn 1 năm hạn chế các hoạt động xây dựng của Tổng thầu).

(5) Lạm phát trong giai đoạn thực hiện năm 2008 (CPI là 19,9%) và giai đoạn 2010-2011 (CPI lần lượt là 11,8% và 18,13%), tổng tỷ lệ lạm phát của riêng 3 năm này đã là 49,83% (ảnh hưởng lớn đến giá nhân công, vật tư, vật liệu xây dựng).

- Về trách nhiệm của các bên liên quan: Dự án chậm tiến độ, tăng tổng mức đầu tư ngoài trách nhiệm chính thuộc phía Công ty HH Tập đoàn Cục 6 Đường sắt Trung Quốc (Tổng thầu); Ban QLDA Đường sắt là đại diện Chủ đầu tư chịu trách nhiệm trực tiếp trong công tác quản lý, điều hành, phê duyệt thiết kế kỹ thuật, dự toán; Bộ Giao thông vận tải, các cơ quan tham mưu của Bộ Giao thông vận tải chịu trách nhiệm là cơ quan chủ quan, phê duyệt Dự án; UBND thành phố Hà Nội (Chủ đầu tư hợp phần GPMB), chịu trách nhiệm về việc chậm trễ trong công tác GPMB; Công ty TNHH giám sát xây dựng Viện nghiên cứu thiết kế công trình đường sắt Bắc Kinh (Tư vấn giám sát) chịu trách nhiệm trong công tác giám sát chất lượng, quản lý tiến độ của Dự án.

Thời gian qua, mặc dù Bộ Giao thông vận tải và các bên liên quan đã quyết liệt chỉ đạo nhưng Dự án vẫn triển khai rất chậm, đến nay Dự án vẫn chưa thể hoàn thành và có nguy cơ kéo dài do Tổng thầu không thực hiện theo chỉ đạo của Bộ Giao thông vận tải. Các khó khăn vướng mắc đã được Bộ Giao thông vận tải báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Văn phòng Trung ương Đảng, Bộ Ngoại giao và Đại sứ quán Trung Quốc để hỗ trợ chỉ đạo và có các giải pháp giải quyết trong thời gian tới. Đồng thời Bộ Giao thông vận tải đã chỉ đạo Ban Quản lý dự án Đường sắt chủ động rà soát các điều khoản trong hợp đồng EPC, xác định rõ trách nhiệm của Tổng thầu và các bên liên quan, chuẩn bị các tình huống xấu nhất có thể xảy ra như đưa các bên liên quan ra trọng tài kinh tế (Tòa án Singapore theo quy định tại hợp đồng) để giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện của các bên trong quá trình thực hiện Hợp đồng EPC./.

Lê Anh

Các bài viết khác