Error

Web Part Error: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe. Correlation ID: 4e2666a1-d9ed-90f0-19a0-51b807845859.

Error Details:
[UnsafeControlException: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe.]
  at Microsoft.SharePoint.ApplicationRuntime.SafeControls.GetTypeFromGuid(Boolean isAppWeb, Guid guid, Guid solutionId, Nullable`1 solutionWebId, String assemblyFullName, String typeFullName, Boolean throwIfNotSafe)
  at Microsoft.SharePoint.WebPartPages.SPWebPartManager.CreateWebPartsFromRowSetData(Boolean onlyInitializeClosedWebParts)

GÓC NHÌN: PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI ĐỐI VỚI ĐỒNG BÀO DÂN TỘC THIỂU SỐ, GÓP PHẦN THỰC HIỆN HIỆU QUẢ NGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG VỀ AN SINH XÃ HỘI

14/08/2024

Những năm qua, tín dụng chính sách xã hội có vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay, góp phần bảo đảm an sinh xã hội. Để hiểu rõ hơn về nội dung này và nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng chính sách xã hội, Cổng TTĐT Quốc hội trân trọng giới thiệu bài viết của TS. Nguyễn Lâm Thành - Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội với tiêu đề: “Phát huy vai trò của tín dụng chính sách xã hội đối với đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần thực hiện hiệu quả Nghị quyết của Đảng về an sinh xã hội”.

GÓC NHÌN: BẢO ĐẢM THỐNG NHẤT, HÀI HÒA, GẮN KẾT TRONG QUY HOẠCH, PHÁT TRIỂN KHÔNG GIAN ĐÔ THỊ VÀ NÔNG THÔN

Cộng đồng 53 dân tộc thiểu số (DTTS) tại Việt Nam có hơn 14 triệu người, chiếm 14,7% dân số cả nước. Đồng bào các DTTS hiện diện trên tất cả 63 tỉnh/thành phố cả nước nhưng cư trú chủ yếu thuộc địa bàn của 51 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, (548 huyện, 5.266 xã), chiếm 3/4 diện tích tự nhiên cả nước. Hiện vùng dân tộc thiểu số và miền núi được xác định theo Quyết định số 861/QĐ-TTg có 3.434 xã và là nơi được xem là “lõi nghèo” với trên 2/3 số đối tượng diện hộ nghèo của cả nước. An sinh xã hội là một vấn đề lớn và là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, giảm nghèo đối với khu vực này, đặc biệt là đối với đồng bào dân tộc thiểu số.

Nghị quyết số 15-NQ/TW ngày 01/6/2012 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về “một số vấn đề về chính sách xã hội giai đoạn 2012 - 2020” đã đặt ra mục tiêu: “Ðến năm 2020, cơ bản bảo đảm an sinh xã hội toàn dân, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập, giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch và thông tin, truyền thông, góp phần từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng và hạnh phúc của nhân dân”. Bảo đảm an sinh xã hội là chủ trương nhất quán và xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta trong lãnh đạo đất nước.

Phó Chủ tịch Quốc hội, Thượng tướng Trần Quang Phương khảo sát việc thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về các Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo bền vững, phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 tại huyện Mường Khương, tỉnh Lào Cai.

Về chính sách cụ thể đối với dân tộc thiểu số, trên cơ sở Nghị quyết của Đảng, Hiến pháp và Luật, thời gian qua Chính phủ ban hành nhiều nghị quyết, quyết định chính sách nhằm phát triển kinh tế- xã hội gắn với bảo đảm, thúc đẩy an sinh xã hội cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua các Chương trình mục tiêu quốc gia; (Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo quốc gia, Chương trình 30a, Chương trình 135); chính sách về giáo dục cho vùng dân tộc như miễn giảm học phí, hỗ trợ tiền ăn cho học sinh bán trú; chính sách hỗ trợ nhà ở, nước sinh hoạt từ khi thực hiện Quyết định 134/2004/QĐ-TTg đến Quyết định 2085/2016/QĐ-TTg; Chính sách về bảo hiểm y tế với việc cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người dân tộc thiểu số vùng đặc biệt khó khăn, hộ nghèo; chính sách phát triển văn hóa - thông tin vùng sâu, vùng xa nhằm tăng khả năng tiếp cận thông tin cho người dân; chính sách hỗ trợ cấp gạo cho các vùng bị thiên tai, thiếu đói... Giai đoạn 2021-2026, các chính sách dân tộc đã cơ bản được tích hợp trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế- xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 theo Nghị quyết 120/2020/QH14 của Quốc hội.

Trong hệ thống chính sách này, bên cạnh ngân sách cho đầu tư, hỗ trợ trực tiếp thì tín dụng chính sách có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong cấu thành hệ thống chính sách, nhất là các nội dung về cải thiện điều kiện sống (nhà ở, đất ở, nước sinh hoạt), phát triển sản xuất (nông, lâm nghiệp) và thương mại, giải quyết việc làm, hỗ trợ giáo dục v.v. Qua đó góp phần thúc đẩy hiệu quả việc thực hiện chính sách dân tộc trên quan điểm phát huy nội lực và tinh thần vươn lên của đồng bào dân tộc thiểu số. 

Theo báo cáo, hiện có khoảng 20 chính sách tín dụng thực hiện và tác động đối tượng là đồng bào và vùng dân tộc thiểu số và miền núi. Có thể được chia làm các nhóm như sau:

- Theo các đối tượng chính sách tín dụng chung theo vùng, gồm 9 chính sách: cho vay nước sạch vệ sinh môi trường, cho vay nhà ở xã hội, cho vay giải quyết việc làm, cho vay học sinh sinh viên (Quyết định157/2007/QĐ-TTg), cho vay hộ sản xuất kinh doanh tại vùng khó khăn, cho vay thương nhân hoạt động thương mại tại vùng khó khăn (Quyết định 92/2009/QĐ-TTg), cho vay đi lao động có thời hạn ở nước ngoài; cho vay trồng rừng sản xuất, phát triển chăn nuôi theo Nghị định số 75/2015/NĐ-CP…

Hiện có khoảng 20 chính sách tín dụng thực hiện và tác động đối tượng là đồng bào và vùng dân tộc thiểu số và miền núi. (ảnh minh họa)

- Theo diện đối tượng hộ nghèo, cận nghèo, hộ dân tộc thiểu số gồm 8 chính sách: Cho vay theo Nghị định 78/2002/NĐ-CP, cho vay đi xuất khẩu lao động diện 30a, cho vay hộ cận nghèo (Quyết định 15/2013/QĐ-TTg), cho vay hộ mới thoát nghèo (Quyết định 28/2013/QĐ-TTg), cho vay hỗ trợ làm nhà ở; cho vay hỗ trợ giải quyết đất ở và giải quyết việc làm (Quyết định 29/2013/QĐ-TTg), cho vay hộ DTTS thiếu đất sản xuất (Quyết định 755/QĐ-TTg); cho vay hộ dân tộc thiểu số (Quyết định 2085/2016/QĐ-TTg)…

- Thực hiện chính sách mới sau đại dịch Covid và thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi: Cho vay người sử dụng lao động để trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất (Quyết định 23/2021/QĐ-TTg); cho vay học sinh, sinh viên mua máy vi tính, thiết bị phục vụ học trực tuyến (Quyết định 09/2022/QĐ-TTg); cho vay cơ sở giáo dục mầm non, tiểu học ngoài công lập; cho vay vùng dân tộc thiểu số theo Nghị định 28/2022/NĐ-CP (được tích hợp một số chính sách tín dụng đã thực hiện trước năm 2022) .

2.1. Những ưu điểm nổi bật

Về cơ chế chính sách, nhìn chung, các chính sách tín dụng ưu đãi dành cho đồng bào DTTS được ban hành với mục tiêu rõ ràng, cơ bản phù hợp với đặc điểm kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Đối tượng cho vay, ngoài đối tượng chung là hộ DTTS nghèo còn mở rộng đến đối tượng học sinh, sinh viên (HSSV) DTTS nghèo, hộ gia đình kinh doanh tại vùng khó khăn, hộ cận nghèo...

Mục đích vay đa dạng, đáp ứng được nhu cầu của người nghèo nói chung và người nghèo DTTS nói riêng (vay làm nhà ở, hỗ trợ sản xuất, vay chuộc đất, xuất khẩu lao động...); kịp thời hỗ trợ khó khăn cho đồng bào DTTS. Thời gian vay vốn được linh hoạt tùy thuộc vào mục đích vay, lãi suất đa dạng được điều chỉnh theo từng thời kỳ tùy theo mục đích, đối tượng vay vốn. Thời gian ân hạn ưu đãi, phù hợp, góp phần khích lệ nhu cầu vay vốn đầu tư của đồng bào DTTS.

Về mô hình quản lý và tổ chức thực hiện, Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) đã bảo đảm việc chỉ đạo chuyên môn, nghiệp vụ, phối hợp với các cấp chính quyền và các hội, đoàn thể trong triển khai thực hiện chính sách tín dụng hộ nghèo (TDHN). Công tác hướng dẫn, kiểm tra, kiểm soát hoạt động và hiệu quả vay vốn TDHN được thực hiện thường xuyên, có sự phối hợp hiệu quả giữa NHCSXH và các cấp chính quyền, tổ chức đoàn thể, đã huy động được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của cả xã hội tham gia vào thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo.

Các chính sách tín dụng ưu đãi đã kịp thời hỗ trợ khó khăn cho đồng bào DTTS.

Về tác động, hiệu quả chính sách, hoạt động của NHCSXH là công cụ thực hiện vai trò điều tiết của Nhà nước và là một trong những công cụ đòn bẩy kinh tế quan trọng, kích thích người nghèo có điều kiện sản xuất kinh doanh, tạo việc làm, tăng thu nhập cải thiện đời sống. Số liệu báo cáo cho thấy, đến 14/6/2023, đối với vùng dân tộc thiểu số và miền núi, tổng doanh số cho vay đạt 377,08 nghìn tỷ đồng, dư nợ đạt 108,66 nghìn tỷ, số khách hàng dư nợ 2,8 triệu với 20,6 triệu lượt khách hàng vay vốn. Khả năng tiếp cận vốn tín dụng của các hộ nghèo, cận nghèo DTTS đã tăng rõ rệt, số lượng hộ nghèo DTTS được vay vốn ngày càng nhiều, dòng vốn luân chuyển cho vay ngày càng tang.

Việc quản lý, sử dụng tiền vay của các hộ hầu hết có hiệu quả, đa số trả nợ đúng hạn, sử dụng đúng mục đích; chính sách TDHN đã giúp nhiều hộ nghèo, hộ cận nghèo DTTS ổn định đời sống, sửa sang, nâng cấp được nhà ở, làm công trình nước, vệ sinh, đầu tư phát triển sản xuất, chăn nuôi, dịch vụ. Nhiều hộ nghèo DTTS sử dụng vốn vay đã thoát nghèo; tỷ lệ hộ nghèo nói chung, hộ DTTS nghèo giảm đáng kể (các huyện nghèo diện 30a từ 3-4%/năm).

2.2. Một số tồn tại, hạn chế

- Hiện tại có khá nhiều chính sách cho vay ưu đãi cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo với sự đa dạng về đối tượng, địa bàn, mục đích vay vốn dễ dẫn đến chồng chéo trong nội dung và phân bổ nguồn vốn tràn trải, không tập trung. Một số chính sách áp dụng chung trên toàn quốc, nên chưa phù hợp các loại đối tượng, vùng, miền, nhất là về điều kiện vay vốn, định mức và lãi suất vay còn thấp..., dẫn đến làm giảm hiệu quả chính sách. Chính sách tín dụng trong chương trình giảm nghèo bền vững và chương trình dân tộc thiểu số còn nhiều trùng lắp về địa bàn, đối tượng.

- Cơ chế, chính sách còn thiếu sự gắn kết giữa tính chiến lược, bao quát và yêu cầu đáp ứng, giải quyết các nhu cầu vay vốn cụ thể, trước mắt của chính sách tín dụng thiếu sự lồng ghép, tích hợp các chính sách ban hành sau với các chính sách đã có, đang phát huy hiệu quả cho cùng nhóm đối tượng…; Thiếu sự đồng bộ, kịp thời trong thực hiện chính sách tín dụng kết hợp chính sách hỗ trợ đầu tư của nhà nước (yêu cầu cần thực hiện cùng thời điểm như hỗ trợ làm nhà ở, phát triển sản xuất…) hay đồng bộ với công tác đào tạo, hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cho người dân. Tín dụng chưa khép kín vào trong chu trình các dự án sản xuất; Chưa rõ trách nhiệm chủ trì và phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn (khuyến công, nông, lâm, ngư…) trong việc thực hiện trách nhiệm dạy nghề, hướng dẫn, tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật đối với các hộ vay vốn, nên hiệu quả sử dụng vốn vay còn hạn chế, tiềm ẩn nhiều rủi ro.

- Chính sách tín dụng hỗ trợ hộ gia đình sản xuất kinh doanh và doanh nghiệp còn chưa đủ sức hấp dẫn thu hút đầu tư vào khu vực miền núi, dân tộc. Nhất là các mô hình, dự án, hoạt động sản xuất theo chuỗi liên kết sản xuất và thị trường, liên kết giữa doanh nghiệp, người dân và nhà cung cấp tín dụng. Ngay cả Nghị định 28/2022/NĐ-CP về tín dụng cho Chương trình dân tộc thiểu số mới được ban hành cũng đã bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu chuyển đổi trong cơ chế, chính sách, nhất là những vấn đề mới. 

- Nguồn lực thực hiện tín dụng ưu đãi cho người nghèo, hộ đồng bào DTTS, các đối tượng xã hội khác còn hạn chế nên mức độ bao phủ chưa toàn diện, chưa tiếp sức cho các hộ muốn thoát nghèo phát triển sản xuất, tránh tái nghèo.

- Công tác thông tin, tuyên truyền về chính sách TDHN chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao. Công tác phối hợp tuyên truyền vận động vay vốn, phổ biến mục đích, yêu cầu sử dụng vốn vay, ý nghĩa, tác dụng và tính ưu đãi của từng dòng vốn vay đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo…còn hạn chế, thậm chí chưa rõ vai trò cơ quam tổ chức chủ trì, phối hợp.

Trong quá trình chuyển đối phát triển kinh tế hiện nay, tín dụng chính sách ngày càng có vị trí quan trọng với vai trò công cụ thúc đẩy, nhất là đối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Điều này thể hiện rõ trong Chỉ thị 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội, Kết luận số 06-KL/TW ngày 10/6/2021 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tiếp tục thực hiện Chỉ thị 40-CT/TW ngày 22/11/2014.

Nghị quyết 88/2019/QH14 của Quốc hội đã phê duyệt Đề án tổng thể đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 đã chỉ rõ yêu cầu nhiệm vụ đối với chính sách tín dụng: “Đổi mới và mở rộng chính sách tín dụng của Ngân hàng Chính sách xã hội theo hướng tăng định mức, mở rộng đối tượng được vay đến các dự án sản xuất, kinh doanh tạo sinh kế cho đồng bào dân tộc thiểu số”. Đây là cơ cở quan trọng cho việc thực hiện định hướng chính sách dân tộc trong giai đoạn mới “giảm cho không, tăng cho vay và cho vay có điều kiện” trong hoạt động tín dụng chính sách. 

3.1. Một số giải pháp

- Xây dựng đề án về tín dụng chính sách giai đoạn 2021-2030 để thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia và chính sách về dân tộc, trong đó lồng ghép với việc thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia, các chính sách an sinh xã hội khác bảo đảm cả tính trước mắt và lâu dài, tính kế hoạch chủ động, khắc phục tình trạng phân tán, dàn trải, thiếu sự kết nối như hiện nay.

- Rà soát, xác định lại các đối tượng, địa bàn rõ ràng, thống nhất để làm cơ sở xây dựng, điều chỉnh các chính sách tín dụng, bảo đảm tính phù hợp của nội dung chính sách, phù hợp đặc điểm kinh tế- xã hội vùng, miền. Đặc biệt trong công tác rà soát, đánh giá nhu cầu đối tượng bảo đảm tính chính xác nhất định, làm cơ sở xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách.

- Cơ cấu lại hệ thống chính sách tín dụng theo hướng tích hợp, thu gọn đầu mối chính sách, tăng định mức chính sách và bảo đảm phù hợp với vùng, miền; tăng cường chính sách hỗ trợ tín dụng đối với các hoạt động sản xuất theo chuỗi, liên kết hợp tác nhằm thay đổi phương thức sản xuất. Trong đó chú trọng hỗ trợ các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế hợp tác, các hộ làm kinh tế khá, giỏi làm nòng cốt với quan điểm lấy người khá để hỗ trợ người nghèo, thay đổi quan điểm chỉ có tín dụng hộ nghèo. Đơn giản hóa hồ sơ, thủ tục và điều kiện cho vay để người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận nguồn tín dụng.

- Trong công tác điều hành, quản lý, cần kịp thời phân bổ, chuyển nguồn vốn vay của Trung ương về các địa phương; chỉ đạo lồng ghép các chính sách trên cùng một địa bàn, giải ngân kịp thời nhất là giữa vốn nhà nước cấp với vốn vay hoặc giữa vốn vay với vốn hỗ trợ của các chương trình, dự án khác (nhất là tín dụng cho các hoạt động sản xuất), bảo đảm tính đồng bộ tạo thuận lợi cho người dân thực hiện. Tăng cường phối hợp giữa các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật, chuyển giao công nghệ của các tổ chức, các đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp và các tổ chức Hội, đoàn thể với hoạt động tín dụng chính sách của NHCSXH để việc sử dụng vốn của người vay hiệu quả, thoát nghèo bền vững.

- Tăng cường trách nhiệm quản lý và phối hợp giữa NHCSXH với Ban Dân tộc, các sở, ngành chuyên môn, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể xã hội trong công tác vận động tuyên truyền, tổ chức thực hiện chính sách tín dụng trên địa bàn; quan tâm chỉ đạo làm tốt công tác thống kê, rà soát, cập nhật các tiêu chí và bình xét hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ thoát nghèo trong thực hiện chính sách.

3.2. Một số khuyến nghị, đề xuất

- Chính phủ có kế hoạch tăng nguồn vốn cho vay qua NHCSXH. Trước mắt bố trí đủ 19.700 tỷ đồng để thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Bố trí cấp bổ sung vốn Điều lệ hàng năm cho NHCSXH. Bố trí cấp bổ sung vốn thực hiện các chương trình do ngân sách Nhà nước cấp, nhằm đáp ứng đủ nhu cầu vay vốn của các đối tượng thụ hưởng theo mục tiêu đề ra của chương trình.

- Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ xem xét, phân bổ nguồn vốn ngân sách Nhà nước theo từng năm để đáp ứng nhu cầu giải ngân cho hộ đồng bào nghèo cả giai đoạn của chính sách; phân bổ nguồn vốn hỗ trợ và nguồn vốn cho vay đồng bộ để các địa phương chủ động thực hiện; tạo điều kiện cho NHCSXH được tiếp nhận nguồn vốn ODA để tạo lập nguồn vốn ổn định lâu dài, lãi suất thấp để tăng nguồn vốn cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác.

- Ngân hàng Nhà nước chỉ đạo xây dựng hoàn thiện cơ chế tạo lập nguồn vốn, cơ chế tài chính, tín dụng của NHCSXH theo hướng ổn định và bền vững; giảm tối đa các chính sách hỗ trợ, vay không lãi để bảo đảm chi phí và gắn trách nhiệm quản lý, thực hiện nghĩa vụ vay, hoàn trả nợ; hoàn thiện chính sách cho vay, thời điểm vay, định mức và lãi suất cho vay ưu đãi đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo, đặc biệt hộ nghèo, hộ cận nghèo DTTS, vùng miền núi, biên giới, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội ĐBKK.

- NHCSXH nghiên cứu, đề xuất đơn giản hóa trình tự, thủ tục vay vốn TDHN; sớm nghiên cứu tích hợp các cơ chế vay ưu đãi cho các mục tiêu của từng nhóm đối tượng hộ nghèo và hộ cận nghèo (trong đó hộ nghèo, hộ cận nghèo DTTS được hưởng mức ưu đãi về lãi suất và ân hạn, gia hạn cao hơn, các hộ nghèo, cận nghèo cư trú vùng miền núi, biên giới, khu vực đặc biệt khó khăn sẽ được hưởng mức ưu đãi về lãi suất và ân hạn, gia hạn cao nhất…).

- Xuất phát từ tầm quan trọng của vấn đề tín dụng chính sách cũng như vai trò, chức năng của NHCSXH, cần quy định rõ ràng hơn địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ, cơ chế quản lý của NHCSXH.

Tín dụng chính sách xã hội có vai trò quan trọng trong việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, nhất là trong giai đoạn chuyển đổi hiện nay, đặc biệt đối với đồng bào dân tộc thiểu số và vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Sự thành công, sự bền vững của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, giảm nghèo, góp phần vào việc bảo đảm an sinh xã hội theo tinh thần Nghị quyết của Đảng./.

        

TS. Nguyễn Lâm Thành

Phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội