Xử lý nợ xấu chưa đạt hiệu quả do sở hữu chéo
Từ 2012 đến nay, thực hiện các đề án tái cơ cấu và xử lý nợ xấu hệ thống tổ chức tín dụng của Chính phủ, tình trạng đầu tư, sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các tổ chức tín dụng có liên quan từng bước được xử lý nghiêm túc nhưng chưa triệt để...Tại Dự thảo Luật Các tổ chức tín dụng (sửa đổi), Ngân hàng Nhà nước tiếp tục bổ sung nhiều quy định nhằm ngăn tình trạng này. Song, theo các chuyên gia, vấn đề mấu chốt nhất là trao chức năng điều tra cho cơ quan thanh tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước lại chưa được các cơ quan làm luật cân nhắc.
Trước năm 2016, hệ thống ngân hàng tại Việt Nam tồn tại 3 loại sở hữu chéo là: sở hữu của các ngân hàng thương mại nhà nước tại các ngân hàng thương mại cổ phần; sở hữu lẫn nhau giữa các ngân hàng thương mại cổ phần; (iii) các tập đoàn, tổng công ty nhà nước và tư nhân sở hữu cổ phần chi phối tại các ngân hàng thương mại cổ phần. Trong đó, mối quan hệ giữa ngân hàng thương mại cổ phần với các tập đoàn tư nhân rất phức tạp. Nhiều ngân hàng có thể được sở hữu bởi rất nhiều công ty gia đình hoặc các thành viên gia đình đồng thời là lãnh đạo ở các doanh nghiệp khác. Thực trạng này đến nay vẫn còn và được che đậy dưới nhiều hình thức tinh vi mà những quy định luật pháp chưa thể đụng đến. Giai đoạn 2016-2020, ngành ngân hàng thực hiện tái cơ cấu theo Quyết định 1058/QĐ-TTG ngày 19/7/2017. Kết thúc giai đoạn này, Kiểm toán Nhà nước và một số cơ quan của Quốc hội đánh giá tình trạng sở hữu chéo và sở hữu có tính chất thao túng, chi phối trong các tổ chức tín dụng có liên quan đã đạt một số kết quả tích cực. Song, vẫn còn đâu đó bên trong sự lòng vòng, lắt léo của các mối quan hệ, “ẩn mình” dưới nhiều tầng lớp do lợi ích nhóm điều phối. Điều này có thể gây hệ lụy khôn lường cho hệ thống ngân hàng, cũng như nền kinh tế.
Sở hữu chéo, đầu tư chéo trong hệ thống tổ chức tín dụng gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực, làm gia tăng rủi ro hệ thống, tạo điều kiện cho các thành viên chuyển vốn lòng vòng, tăng vốn điều lệ không thực chất... Do đó, tại Luật Các tổ chức tín dụng sửa đổi lần này, Ngân hàng Nhà nước đã dự thảo nhiều quy định bổ sung để ngăn chặn, một trong giải pháp được Ngân hàng nhà nước đưa ra là trong Dự thảo luật là sửa đổi, bổ sung quy định về giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông theo hướng giảm tỷ lệ sở hữu tối đa của một cổ đông, một cổ đông và người có liên quan để tăng tính đại chúng. Theo đó, tỷ lệ sở hữu tối đa của một cá nhân từ mức 5% vốn điều lệ ngân hàng sẽ giảm xuống còn 3%. Sở hữu của một cổ đông là tổ chức, giảm từ mức 15% hiện tại xuống còn 10%, của nhóm cổ đông và người liên quan cũng được đề xuất giảm từ 20% xuống 15%.
Tiến sỹ Hồ Quốc Tuấn, Giảng viên cao cấp, chuyên ngành tài chính - Kế toán Đại học Bristol, Anh phát biểu trực tuyến tại Hội thảo
Giảm tỷ lệ sở hữu cổ đông lớn chưa phải là phương thức hữu hiệu giảm sở hữu chéo ngân hàng
Tại hội thảo, các chuyên gia còn nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề này. Tiến sỹ Hồ Quốc Tuấn, Giảng viên cao cấp, chuyên ngành tài chính - Kế toán Đại học Bristol, Anh, cho rằng, việc giới hạn tỷ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông theo hướng giảm tỷ lệ sở hữu tối đa của một cổ đông, một cổ đông và người có liên quan để tăng tính đại chúng, chưa chắc đã ngăn chặn được tình trạng sở hữu chéo, bởi cốt lõi vấn đề của ngân hàng Việt Nam nằm ở vấn đề quản trị. Ngân hàng tập trung quá nhiều vào bất động sản trong khi lĩnh vực này đang gặp khó khăn khi tăng trưởng tín dụng năm 2021 đạt 13,61%, trong đó tín dụng đổ vào bất động sản tăng 15,4%, cổ phiếu 23,85% và trái phiếu doanh nghiệp 17,65%, theo báo cáo của Kiểm toán Nhà nước Việt Nam.”
Theo đó, Tiến sỹ Hồ Quốc Tuấn, Sở hữu chéo giữa các nhà phát triển bất động sản và ngân hàng tại Việt Nam đang gặp phải những vấn đề mà Trung Quốc đang phải đối diện, khi các công ty bất động sản có vốn hóa yếu vay mượn nhiều từ các ngân hàng thông qua mạng lưới phức tạp của các chi nhánh, từ đó đặt các ngân hàng này cũng như toàn bộ hệ thống ngân hàng vào trạng thái rủi ro cao. Vì vậy, cần cân nhắc cải cách trong giám sát ngân hàng sẽ là một nhiệm vụ chính sách công đa diện với nhiều mục tiêu, để đảm bảo ổn định tài chính (giải quyết rủi ro hệ thống; bảo vệ người tiêu dùng tài chính (giải quyết thông tin bất đối xứng) và tính toàn vẹn của thị trường tài chính (giải quyết các hành vi gian lận và tội phạm).
Theo đó, TS Hồ Quốc Tuấn đề xuất một số mô hình giám sát hoạt động ngân hàng như Mô hình giám sát theo nghành, (Tức là một cơ quan quản lý ngành tài chính (NHNN) chịu trách nhiệm về tính an toàn và giám sát hoạt động kinh doanh cua các ngân hàng. Một cơ quan có thẩm quyền khác co nhiệm vụ tương tự đối với các công ty bảo hiểm. Cơ quan thứ ba chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh chứng khoán). Hai là mô hình Đỉnh Đôi, hay ba là mô hình tích hợp. Theo đó, các ngân hàng trung ương hoặc cơ quan giám sát đồng thời là cơ quan chủ chốt giám sát an toàn vi mô đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng, bao hiểm và chứng khoán; và cũng là người giám sát hoạt động kinh doanh, có thể chịu trách nhiệm chính hoặc chia sẻ trách nhiệm với các ngân hàng, công ty bảo hiểm và chứng khoán.
TS. Vũ Nhữ Thăng, Phó Chủ tịch phụ trách Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
Đóng góp tại hội thảo, TS. Vũ Nhữ Thăng, Phó Chủ tịch phụ trách Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia đặt vấn đề, mặc dù theo luật TCTD đã quy định các tỷ lệ về giới hạn sở hữu cổ phầncủa các cá nhân, tổ chức và người có liên quan nhằm tăng sự an toàn trong hoạt động của TCTD. Tuy nhiên trên thực tế, các cổ đông có thể đã sử dụng nhiều cách thức, thông qua các mối quan hệ không bị giới hạn theo quy định tại Luật để gián tiếp gia tăng tỷ lệ sở hữu cổ phần thực tế và nắm quyền chi phối tại các định chế tài chính/TCTD, như Cổ đông sử dụng mô hình “cá nhân và công ty TNHH một thành viên do cá nhân đó làm chủ” hoặc “cá nhân và CTCP chưa niêm yết với tỷ lệ sở hữu cổ phần của cá nhân đó trên 65%. Thông qua người có liên quan và mối quan hệ thành viên gia đình nhưng không bị giới hạn bởi quy định của người có liên quan tại luật TCTD.
TS. Vũ Nhữ Thăng cũng nêu thực tế, các công ty có xu hướng không minh bạch thông tin liên quan đến chủ sở hữu và giao dịch có liên quan đến chủ sở hữu và người có liên quan. Thiếu thông tin về các cổ đông tổ chức nắm giữ tỷ lệ sát ngưỡng 5% để tránh các quy định công bố thông tin về cổ đông lớn, thường là công ty TNHH và cổ phần chưa niêm yết/không phải là công ty đại chúng. Công bố thông tin của loại hình công ty TNHH, công ty hợp danh và công ty cổ phần chưa niêm yết thiếu, ngay cả khi cung cấp cho các cơ quan quản lý. Thiếu quy định về công bố thông tin cổ đông lớn là cá nhân do theo quy định điều 55 Luật các TCTD quy định một cá nhân không được sở hữu quá 5% vốn điều lệ của TCTD. Việc các cổ đông cá nhân tăng sở hữu thực tế thông qua mối quan hệ thành viên gia đình là hàng cháu” đã tránh được các quy định về người có liên quan nên không phải công khai thông tin của các cổ đông “hàng cháu”. Điều này dẫn đến không đảm bảo được tính minh bạch trong hoạt động ngân hàng, gây khó khăn trong hoạt động quản lý, kiểm tra, giám sát quyền “chi phối” thực sự của ngân hàng. Một số trường hợp như đứng tên hộ, sử dụng “công ty bình phong”… chỉ có thể được phát hiện và nhận diện thông qua công tác điều tra, xác minh của cơ quan điều tra.
Quy định về tỷ lệ sở hữu nên giữ như quy định hiện hành, cần sửa quy định có liên quan đến người liên quan và công bố thông tin
Từ phân tích trên, TS Vũ Nhữ Thăng cho rằng, việc quy định giảm tỷ lệ sở hữu tối đa của một cá nhân từ 5% xuống 3% vốn điều lệ, sở hữu của một cổ đông từ tổ chức, giảm từ 15% xuống 10%, hay nhóm cổ đông liên quan từ 20% xuống 15% như quy định của dự thảo sẽ không có nhiều ý nghĩa để hạn chế sở hữu chéo. Từ đó, TS Vũ Nhữ Thăng nhận định việc “hạn chế sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng” thì yếu tố hàng đầu là phải xác định được cá nhân/tổ chức là chủ sở hữu thực sự của ngân hàng. Nói cách khác, khuôn khổ pháp lý cần thiết kế nhằm xác định được cá nhân/tổ chức nắm quyền chi phối, ảnh hưởng đến việc ra quyết định trong hoạt động của ngân hàng đó, tức là làm minh bạch thông tin của tất cả các cá nhân, tổ chức là cổ đông của ngân hàng thương mại thay vì giảm tỷ lệ sở hữu. Do đó, để hạn chế sở hữu chéo và xử lý được nợ xấu tại các tổ chức tín dụng thì cần làm rõ đối tượng “Người có liên quan” trong dự thảo Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi. với Luật chứng khoán, Luật Doanh nghiệp và Luật Hôn nhân và Gia đình (Khoản 16 Điều 3).
Đồng thời rà soát bổ sung các quy định về công bố thông tin. Theo đó, cần bổ sung các quy định về việc cổ đông, chủ sở hữu phải công bố thông tin nhằm giám sát hữu hiệu về sở hữu của TCTD. Quy định về công bố thông tin của TCTD (đặc biệt là ngân hàng thương mại - NHTM) cần phải được quy định chặt chẽ hơn so với các công ty đại chúng, công ty niêm yết theo Luật chứng khoán 2019 (Luật Chứng khoán hiện hành yêu cầu công bố thông tin của cổ đông lớn, nhóm người có liên quan sở hữu từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty đại chúng...). Cụ thể, nghiên cứu bổ sung quy định nghĩa vụ công bố thông tin đối với cổ đông (cả tổ chức và cá nhân) và nhóm người có liên quan sở hữu cổ phần của TCTD trên một mức cụ thể.
Đại biểu Nguyễn Tạo, Phó Trưởng đoàn chuyên trách, Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng
Tại hội thảo lấy ý kiến Luật Các Tổ chức tín dụng (sửa đổi) tại Thành phố HCM vào ngày 1/8, Đại biểu Nguyễn Tạo, Phó Trưởng đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Lâm Đồng cũng đồng quan điểm với nhiều chuyên gia, là giữ nguyên tỷ lệ sở hữu cổ phần (điều 53 )như quy định của Luật hiện hành, bởi không có cơ sở, căn cứ để đề xuất các tỷ lệ như tại dự thảo Luật (từ 5%, 15%, 20% giảm xuống còn 3%, 10% và 15%); chưa có đánh giá rõ thực trạng sở hữu cổ phần tại các TCTD để xác định rõ mức độ, nguyên nhân của tình trạng sở hữu chéo; chưa có đánh giá tác động của các quy định này đối với các cổ đông hiện hữu, nhất là cổ đông chiến lược nước ngoài sẽ phải giảm tỷ lệ sở hữu cổ phần sau khi luật có hiệu lực; tác động đến thị trường chứng khoán...; theo nghiên cứu thì trên thế giới không có Luật Ngân hàng nào đề cập chống sở hữu chéo như ở Việt Nam, các quy định chống sở hữu chéo theo các thông lệ quốc tế cũng không thấy đề cập về tỷ lệ như trên; luật ở các nước khống chế tỷ lệ sở hữu tối đa vì nguyên tắc chống độc quyền, chứ không tìm cách giảm thấp tỷ lệ này xuống để xử lý sở hữu chéo; Quy định này cũng chưa thống nhất với khái niệm cổ đông lớn quy định tại Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán…
Một số hình ảnh tại Hội thảo:
Hình ảnh các đại biểu tham luận tại Hội thảo