Error

Web Part Error: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe. Correlation ID: 7f3c66a1-b927-90f0-19a0-5d0c97bafb4f.

Error Details:
[UnsafeControlException: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe.]
  at Microsoft.SharePoint.ApplicationRuntime.SafeControls.GetTypeFromGuid(Boolean isAppWeb, Guid guid, Guid solutionId, Nullable`1 solutionWebId, String assemblyFullName, String typeFullName, Boolean throwIfNotSafe)
  at Microsoft.SharePoint.WebPartPages.SPWebPartManager.CreateWebPartsFromRowSetData(Boolean onlyInitializeClosedWebParts)

ĐBQH ĐÀO CHÍ NGHĨA: THÁO GỠ NHỮNG VƯỚNG MẮC VỀ CÔNG TÁC TÍCH HỢP QUY HOẠCH

22/07/2023

Thảo luận tại Hội trường về Dự án Luật Đất đai (sửa đổi), đại biểu Đào Chí Nghĩa – Đoàn ĐBQH Tp. Cần Thơ đề nghị tháo gỡ những vướng mắc về công tác tích hợp quy hoạch; đồng thời, đảm bảo nguyên tắc, căn cứ, phương pháp định giá đất.

TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP CHIỀU 21/6: QUỐC HỘI TIẾP TỤC THẢO LUẬN DỰ ÁN LUẬT ĐẤT ĐAI (SỬA ĐỔI)

Tại phiên thảo luận, đại biểu Đào Chí Nghĩa đánh giá cao Ban soạn thảo cũng như cơ quan thẩm tra đã tiếp thu và điều chỉnh nhiều ý kiến góp ý của cử tri cả nước, các tổ chức, cá nhân góp ý đối với dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi). Đây là việc làm rất cần thiết, thể chế hóa Nghị quyết 18 của Trung ương nhằm giải quyết các vấn đề thực tiễn đặt ra.

Còn một số vướng mắc về công tác tích hợp quy hoạch

Quan tâm về quy hoạch sử dụng đất cấp huyện ở Điều 66, đại biểu chỉ rõ, tại khoản 3 Điều 66 quy định đối với cấp quận, thành phố trực thuộc trung ương, thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương, thành phố thuộc tỉnh, thị xã thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương đã có quy hoạch đô thị được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt theo quy định của Luật Quy hoạch đô thị thì không lập quy hoạch sử dụng đất nhưng phải lập kế hoạch sử dụng đất hàng năm phù hợp với chỉ tiêu sử dụng đất đã được phân bổ từ quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh và các chỉ tiêu sử dụng tại địa phương.

Đại biểu Đào Chí Nghĩa – Đoàn ĐBQH Tp. Cần Thơ

Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu kỹ lưỡng hơn để khắc phục những bất cập khi thực hiện khoản 3 Điều 66 vì những nguyên nhân sau:

Hiện nay, chúng ta đang gặp một số vướng mắc về công tác tích hợp quy hoạch, quy hoạch sau chồng lên quy hoạch trước. Chính vì chưa khớp nhau trong các lớp quy hoạch đã dẫn đến việc giao đất, cho thuê đất để thực hiện các dự án không thể thực hiện được. Thực trạng này hiện nay đang diễn ra ở một số địa phương, các dự án kinh doanh bất động sản không được giao đất, cho thuê đất vì quy hoạch xây dựng tỷ lệ 1/500 của dự án mâu thuẫn với quy hoạch đô thị dẫn đến các dự án này gần như tê liệt.

Đại biểu chỉ ra rằng, nếu thay quy hoạch sử dụng đất bằng quy hoạch đô thị thì sẽ gặp những vướng mắc sau:

Thứ nhất, quy hoạch đô thị hiện nay chưa có tính kế thừa tốt như quy hoạch sử dụng đất giai đoạn 2010-2020, có những vị trí trên quy hoạch sử dụng đất là đất sản xuất kinh doanh nhưng khi qua quy hoạch đô thị là đất ở. Việc này gây nhiều khó khăn trong công tác quản lý đất đai tại địa phương.

Thứ hai, những nơi đã được quy hoạch sử dụng đất trước đây là đất ở mà người dân đã sinh sống hàng chục năm nay quy hoạch đô thị, quy hoạch với mục đích sử dụng khác thì vô hình trung đã tước đi lợi ích hợp pháp của người dân trong việc chuyển mục đích sử dụng đất, xây dựng nhà ở.

Thứ ba, hiện nay Chính phủ đang đẩy mạnh cải cách hành chính, chuyển đổi số nhằm đem lại nhiều lợi ích cho người dân và rút ngắn thời gian về thủ tục hành chính. Tuy nhiên, thực tế lại mất nhiều thời gian hơn do phát sinh các thủ tục liên quan đến bất cập trong quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch đô thị. Ví dụ, người dân muốn thực hiện việc chuyển mục đích sử dụng đất, trước đây người dân chỉ cần nộp hồ sơ chuyển mục đích tại Phòng Tài nguyên và Môi trường và mất 14 ngày để hoàn thành việc chuyển mục đích sử dụng. Tuy nhiên, hiện nay người dân ngoài việc nộp hồ sơ tại Phòng Tài nguyên và Môi trường còn phải nộp hồ sơ qua Phòng Quản lý đô thị để xác nhận các yêu cầu cho việc chuyển mục đích sử dụng đất, mất thêm 14 ngày nữa cho thủ tục này, do đó tổng thời gian giải quyết sẽ tăng gấp đôi so với quy trình thủ tục trước đó. Như vậy, người dân sẽ mất nhiều thời gian hơn và thực hiện nhiều thủ tục hơn so với trước đây. Điều này đi ngược với yêu cầu tinh gọn thủ tục hành chính mà Chính phủ đang tập trung thực hiện.

Thứ tư, việc chưa đồng nhất trong việc sử dụng phần mềm giữa quy hoạch đô thị do Sở Xây dựng thực hiện và phần mềm quy hoạch sử dụng đất do Sở Tài nguyên và Môi trường thực hiện, cách thức vận hành và sản phẩm đầu ra của 2 phần mềm này khác nhau dẫn đến việc chồng ghép các lớp quy hoạch lên nhau sẽ không trùng khớp. Ví dụ, thực hiện dự án tuyến đường qua đơn vị hành chính của cả quận và huyện thì quận sẽ do Sở Xây dựng cập nhật trên bản đồ đô thị, còn huyện thì do ngành tài nguyên môi trường cập nhật trên bản đồ sử dụng đất, nghĩa là cùng một dự án nhưng 2 đơn vị phải thực hiện theo dõi, cập nhật và quản lý bằng 2 phần mềm khác nhau nên chắc chắn việc thống nhất và đồng bộ trong công tác quản lý sẽ rất khó khăn.

Thứ năm, về ký hiệu các loại đất giữa quy hoạch đô thị và quy hoạch sử dụng đất hiện nay đang hoàn toàn khác nhau, dẫn đến việc khi Sở Tài nguyên và Môi trường tham mưu cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành trong việc chuyển mục đích sử dụng đất thì phải làm văn bản trao đổi với Sở Xây dựng vị trí đó sử dụng vào mục đích gì thì ngành tài nguyên môi trường mới thực hiện được nhiệm vụ. Đây là những bất cập nội tại, mất nhiều thời gian, gây lãng phí cho xã hội.

Đại biểu đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu kỹ lưỡng và nên để quy hoạch sử dụng đất thực hiện đúng sứ mệnh của chính mình. Trong thực tế, trong những thời gian qua đối với công tác quy hoạch chung của từng địa phương, xác định quy hoạch sử dụng đất là quy hoạch nền, quy hoạch cụ thể, mục đích sử dụng đất của từng khu chức năng, từng vị trí thửa đất, quy hoạch đô thị sẽ là lớp quy hoạch chồng lên quy hoạch nền, xác định ở từng vị trí cụ thể được xây dựng bao nhiêu tầng, khoảng lùi bao nhiêu, có tầng hầm hay không, v.v. và đó là nhiệm vụ của quy hoạch đô thị, quy hoạch xây dựng, còn đất sử dụng với mục đích gì là nhiệm vụ của quy hoạch sử dụng đất.

Bảo đảm tính khách quan, công khai, minh bạch và công bằng

Liên quan đến nguyên tắc, căn cứ, phương pháp định giá ở Điều 158, đại biểu cho biết, khoản 5 Điều 158 có xác định căn cứ nguồn dữ liệu thông tin đầu vào để xác định giá đất, cơ quan, tổ chức định giá đất được quyết định, xác định giá đất bằng một hoặc nhiều phương pháp định giá theo quy định tại khoản 4 điều này, cơ quan quyết định giá đất theo kết quả xác định giá đất có lợi ích nhất cho ngân sách nhà nước.

Đại biểu đề xuất bổ sung nội dung Bộ Tài nguyên và Môi trường xây dựng phần mềm kết nối dữ liệu giá đất với các phòng công chứng thuộc sự quản lý của Sở Tư pháp và các phòng chuyên môn của Sở Tài nguyên và Môi trường để giá đất được thường xuyên cập nhật, đồng thời đề nghị bỏ cụm từ "cơ quan quyết định giá đất theo kết quả xác định giá đất có lợi nhất cho ngân sách nhà nước" ở cuối khoản 5 để bảo đảm tính khách quan, công khai, minh bạch và công bằng.

Ngoài ra, đại biểu đề nghị bổ sung quy định về trách nhiệm cập nhật thông tin và giá trị thông tin được công khai về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất ở Điều 75 của dự thảo. Việc công khai, minh bạch thông tin quy hoạch sẽ bảo đảm tính ổn định của thị trường, hạn chế tối đa những tác động tiêu cực đến giá đất.

Với nội dung của Điều 75, đại biểu kiến nghị bổ sung quy định về trách nhiệm cập nhật thông tin và giá trị của thông tin được công khai. Cụ thể, bổ sung nội dung "cơ quan có trách nhiệm công khai thông tin phải cập nhật và chịu trách nhiệm về tính chính xác của thông tin được công khai" và thông tin được công khai theo hình thức quy định tại khoản 2 Điều 75 là cơ sở giải quyết các yêu cầu của người sử dụng đất, điều này khẳng định giá trị của thông tin được công khai, bảo đảm quyền lợi chính đáng của người sử dụng đất.

Minh Hùng