ĐBQH Nguyễn Bá Thuyền (Lâm Đồng): Cần có sự cân nhắc thận trọng giữa cái mới và cái cũ
Về áp dụng pháp luật trong Bộ luật Dân sự, dự thảo Bộ luật quy định theo hướng: nếu không có luật thì áp dụng thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì áp dụng theo tập quán, nếu không có tập quán thì áp dụng nguyên tắc tương tự, không có nguyên tắc tương tự thì áp dụng nguyên tắc cơ bản của Bộ luật Dân sự. Trong trường hợp không áp dụng được nguyên tắc tương tự thì vì lẽ công bằng của pháp luật và đạo đức xã hội, tòa án phải xét xử. Nếu chúng ta thực hiện được điều này thì quá tốt. Bởi vì, thực tiễn hiện nay rất nhiều người dân khổ sở về vấn đề tòa không thụ lý đơn của họ. Nếu theo quy định của Bộ luật Dân sự lần này, chúng ta khẳng định vấn đề này và Tòa án làm được thì chắc chắn người dân sẽ được hưởng lợi rất nhiều. Vì theo quy định của dự thảo, nếu tòa án xét xử không chấp nhận đơn, không giải quyết đơn thì dân có quyền kháng nghị, kháng cáo lên tòa cấp trên để có người xét xử, trong khi, theo quy định hiện hành, nếu tòa án không thụ lý, trả lại thì dân cũng không biết đi đâu để giải quyết. Vì vậy, nếu áp dụng được nguyên tắc nêu trên thì sẽ giải quyết được nhiều vấn đề bức xúc của dân. Tuy nhiên, tôi cũng rất băn khoăn về quy định này. Bởi lẽ, Hiến pháp, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân vừa được QH thông qua có quy định khi xét xử, thẩm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, tức là anh thẩm phán khi xét xử là phải căn cứ vào luật, nếu không có luật thì không được xử. Dự thảo Bộ luật lại đưa ra nguyên tắc áp dụng như đã nêu ở trên thì có mâu thuẫn với quy định của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân hay không? Tôi đề nghị, cơ quan soạn thảo phải lý giải rõ chỗ này. Nếu không lý giải thì thực sự là rất khó thực hiện. Bởi vì, nguyên tắc trong Hiến pháp khẳng định thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật. Áp dụng các nguyên tắc tương tự hoặc vì lẽ công bằng thì không thấy Hiến pháp, không thấy Luật Tổ chức Tòa án nhân dân quy định. Ví dụ, Luật Hôn nhân gia đình, các nước quy định rất cụ thể những điều kiện được ly hôn và những điều kiện không được ly hôn. Trong Bộ Luật Hồng Đức của chúng ta cũng quy định có 7 điều kiện được ly hôn và 3 điều kiện không được ly hôn, rất rõ ràng, rành mạch. Nhưng luật của chúng ta quy định một câu rất hay là mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn trở nên trầm trọng thì cho ly hôn. Thực ra, tòa cấp dưới bảo vấn đề này rất trầm trọng, tòa cấp trên bảo chưa thấy trầm trọng nên hủy án. Vậy hiểu như thế nào là trầm trọng? Dự thảo Bộ luật có quy định là vì lẽ công bằng của xã hội thì tòa án phải thụ lý, phải xét xử. Nhưng như thế nào là công bằng? Tòa sơ thẩm bảo vấn đề này là công bằng, tòa cấp trên bảo vấn đề này chưa công bằng thì làm thế nào? Rõ ràng, để giải quyết vấn đề công bằng, xác định thế nào là công bằng… đòi hỏi trình độ thẩm phán phải thật sự uyên thâm. Dự thảo Bộ luật chúng ta quy định cho tương lai, nhưng theo tôi, cần có sự cân nhắc giữa cái mới, cái cũ và cân nhắc những điều quy định của dự thảo với quy định của Hiến pháp và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân.
ĐBQH Trần Hồng Hà (Vĩnh Phúc): Tại sao phải thay đổi các thuật ngữ đang được sử dụng ổn định, không phát sinh vướng mắc gì bằng những thuật ngữ khó hiểu, gây khó khăn cho việc áp dụng luật?
Bộ luật Dân sự tác động đến các mối quan hệ cơ bản, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống xã hội. Vì vậy, dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) cần xác định rõ những nguyên tắc cơ bản thuộc phạm vi điều chỉnh của Bộ luật, những nội dung cụ thể có tính đặc thù của từng lĩnh vực thuộc phạm vi điều chỉnh của các luật chuyên ngành; đồng thời, cần kịp thời sửa đổi, bổ sung một số đạo luật trong hệ thống pháp luật dân sự nhằm bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, ổn định của hệ thống pháp luật.
Về tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự, việc quy định những biện pháp nhằm bảo vệ các quyền dân sự, quyền con người, và quyền công dân là cần thiết, phù hợp với các quy định của Hiến pháp mới. Tuy nhiên, với những nội dung mới được bổ sung tại Điều 21, 22 của dự thảo Bộ luật, tôi đề nghị, phải xem xét hết sức thận trọng để bảo đảm tính khả thi. Các tranh chấp dân sự rất phức tạp nên cần có những quy định hướng dẫn cụ thể, làm rõ hơn nội hàm của việc áp dụng tập quán, áp dụng tương tự pháp luật và lẽ công bằng xã hội để tòa án có đủ căn cứ áp dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp.
Về sử dụng thuật ngữ hành vi pháp lý dân sự thay thế cho thuật ngữ giao dịch dân sự, tôi đề nghị giữ nguyên thuật ngữ giao dịch dân sự như quy định của Bộ luật Dân sự hiện hành, vì thuật ngữ này hiện đang được sử dụng ổn định trong hệ thống pháp luật cũng như trong đời sống xã hội, không có gì vướng mắc trong quá trình áp dụng. Điều 121 Bộ luật Dân sự hiện hành quy định giao dịch dân sự đã bao gồm hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Như vậy, giao dịch dân sự của Bộ luật hiện hành cũng đã quy định rất đầy đủ, rõ ràng và cụ thể.
Về việc sử dụng thuật ngữ vật quyền, trái quyền - tôi cũng đề nghị giữ nguyên như Bộ luật hiện hành là tài sản, quyền sở hữu, nghĩa vụ và hợp đồng. Vì đây là những thuật ngữ dễ hiểu mang tính phổ biến. Thực tế áp dụng pháp luật hàng chục năm qua cũng không thấy có vướng mắc gì. Vậy tại sao chúng ta phải thay đổi các thuật ngữ này? Trong khi đó, các thuật ngữ như vật quyền, trái quyền rất khó hiểu. Điều này sẽ gây khó khăn cho việc áp dụng luật sau này.
ĐBQH Đặng Công Lý (Bình Định): Chỉ quy định thời hạn yêu cầu chia di sản thừa kế không thể giải quyết được những hạn chế của pháp luật hiện hành
Về cơ bản, tôi thống nhất với dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) và thống nhất với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật về dự án Bộ luật Dân sự (sửa đổi) được trình QH tại Kỳ họp này. Tuy nhiên, từ thực tiễn công tác xét xử tại tòa án, tôi có một số đề xuất như sau:
Về thời hiệu thừa kế, dự thảo Bộ luật bỏ quy định thời hiệu khởi kiện để xác nhận quyền thừa kế, bác bỏ quyền thừa kế của người khác, yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản và chỉ còn quy định về thời hạn yêu cầu chia di sản thừa kế. Theo quy định tại Điều 664 dự thảo, thời hạn yêu cầu chia di sản thừa kế là 30 năm đối với bất động sản, 10 năm đối với động sản. Tuy nhiên, trên thực tế việc xác định trường hợp thế nào là ngay tình quy định tại khoản 2, Điều 644 là rất khó khăn. Chẳng hạn người thừa kế di sản, người đang quản lý di sản đã ở trên mảnh đất đó, mảnh đất di sản thừa kế trước hoặc sau thời điểm mở thừa kế, đến khi có tranh chấp thì có được xác định là chiếm hữu ngay tình, liên tục công khai hay không? Thực tế giải quyết tranh chấp di sản thừa kế tại tòa án trong những năm qua cho thấy, hàng nghìn trường hợp người không thuộc diện thừa kế nhưng vẫn là người đang quản lý, sử dụng di sản. Nếu xác định những trường hợp trên là chiếm hữu không ngay tình liên tục, công khai, tức là việc chiếm hữu của họ không có căn cứ pháp luật, không ngay tình thì tất cả những di sản này sẽ thuộc về Nhà nước theo điểm b, khoản 2, Điều 644 dự thảo Bộ luật. Tôi cho rằng, quy định này là chưa phù hợp với thực tế, chưa phù hợp với Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền sở hữu, quyền dân sự của công dân. Đây là quy định mới nhằm mục đích giải quyết những hạn chế của pháp luật trước đây về hết thời hạn yêu cầu chia di sản. Nhưng nếu quy định này được thông qua, đi vào đời sống sẽ gây khó khăn, bức xúc lớn trong xã hội, đặc biệt là những người đang quản lý chiếm hữu di sản thừa kế vì những di sản thừa kế nếu không được người thừa kế đòi lại thì di sản được sử dụng ổn định, nay lại chuyển thành tài sản của Nhà nước.
ĐBQH Nguyễn Thành Bộ (Thanh Hóa): Nên giữ nguyên quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình như trong Điều 138 Bộ luật Dân sự 2005
Về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự bị vô hiệu. Tại khoản 2, Điều 145 của dự thảo Bộ luật có quy định: trường hợp đối tượng của giao dịch dân sự là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu mà tài sản đó được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, sau đó được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba. Người này căn cứ vào việc đăng ký mà xác định lập, thực hiện giao dịch thì giao dịch đó không bị vô hiệu trừ trường hợp người thứ ba biết hoặc phải biết tài sản đó bị chiếm đoạt bất hợp pháp hoặc ngoài ý chí của chủ sở hữu. Theo tôi, quy định này chỉ bảo vệ được quyền lợi cho người thứ ba, không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu. Quá trình giải quyết sẽ khó chứng minh người thứ ba có thực sự ngay tình hay không, cho dù biết tài sản là đối tượng giao dịch đã bị chiếm đoạt bất hợp pháp ngoài ý chí của chủ sở hữu. Nếu biết người thứ hai trong giao dịch dân sự không có khả năng thanh toán thì người thứ ba cũng sẽ không bao giờ thừa nhận là họ có biết để không bị buộc trả lại tài sản cho chủ sở hữu, nhất là trong trường hợp người thứ hai trong giao dịch có sự thông đồng với người thứ ba. Như vậy, quyền lợi của chủ sở hữu sẽ bị thiệt hại nghiêm trọng. Do vậy, nên giữ nguyên quy định về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình như trong Điều 138 Bộ luật Dân sự 2005, sau đó người thứ ba chỉ được bảo vệ khi nhận tài sản thông qua bán đấu giá hoặc giao dịch với người được bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền công nhận là chủ sở hữu tài sản, nhưng sau đó lại không phải do bản án, quyết định bị hủy và phải sửa.