Chủ trì hội thảo có Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc - Trưởng ban chỉ đạo đề án; Đồng chủ trì có các Uỷ viên Bộ Chính trị: Thủ tướng Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ, Trưởng ban Nội chính Trung ương Phan Đình Trạc, Chánh án Toà án nhân dân tối cao Nguyễn Hòa Bình, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh Nguyễn Xuân Thắng.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ - Phó Trưởng ban Chỉ đạo đề án
Phát biểu khai mạc hội thảo, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ - Phó Trưởng ban Chỉ đạo đề án nhấn mạnh: Hội thảo được tổ chức vào thời điểm rất có ý nghĩa, khi cả nước vừa thực hiện thành công các nhiệm vụ công tác năm 2021, năm đầu tiên triển khai Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, thách thức lớn do đại dịch Covid-19 gây ra. Trong năm 2021, thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các cơ quan, tổ chức có liên quan rất tích cực triển khai việc xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” để trình Bộ Chính Trị, Ban Chấp hành Trung ương trong tháng 10/2022. Trong đó, “xây dựng Chiến lược cải cách tư pháp” là một trong những nội dung trọng tâm của Đề án.
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ nhấn mạnh, kết quả tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 cho thấy, công tác cải cách tư pháp đã đạt được nhiều kết quả rất quan trọng; nền tư pháp nước ta đã có một bước tiến dài trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đánh giá: “Thứ nhất, nhận thức của cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên và nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác tư pháp và cải cách tư pháp được nâng lên rõ rệt; (2) Công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật cơ bản đã thể chế hóa được các chủ trương của Đảng về cải cách tư pháp, các nguyên tắc đặc thù về tổ chức và hoạt động tư pháp với tư cách là giá trị văn minh trong nhà nước pháp quyền hiện đại được ghi nhận, thể chế hóa và thực hiện; (3) Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các cơ quan tư pháp được kiện toàn, đổi mới; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động tư pháp đã được nâng cao hơn; đội ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng; (4) Nhiều hoạt động bổ trợ tư pháp được xã hội hóa, đạt kết quả tích cực; (5) Hợp tác quốc tế về tư pháp được mở rộng; (6) Việc đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các cơ quan tư pháp ngày càng được quan tâm; (7) Phương thức lãnh đạo của Đảng, công tác giám sát của các cơ quan dân cử đối với các cơ quan tư pháp tiếp tục được đổi mới. Kết quả cải cách tư pháp đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội đất nước, thúc đẩy hội nhập quốc tế”.
Toàn cảnh hội thảo
Bên cạnh kết quả đạt được, Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đánh giá công tác cải cách tư pháp thời gian qua vẫn còn không ít những hạn chế, bất cập. Về nhận thức, vẫn còn tồn tại cách hiểu chưa thống nhất về nội hàm tư pháp; quyền tư pháp; cơ quan tư pháp; độc lập tư pháp; kiểm soát quyền lực tư pháp, cùng với đó là nhiều vấn đề hạn chế về thực tiễn.
“Về hoạt động thực tiễn, một số nhiệm vụ, giải pháp cải cách tư pháp đề ra trong Nghị quyết số 49 của Bộ Chính trị đến nay vẫn được cho là đúng đắn nhưng chưa được thực hiện hoặc có thực hiện nhưng chưa thực sự hiệu quả; nhất là trong cải cách tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp; trong xây dựng và thực hiện cơ chế phân công, phối hợp kiểm soát quyền lực giữa các cơ quan trong hoạt động tư pháp; trong đổi mới thủ tục hành chính trong các cơ quan tư pháp; công tác đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ có chức danh tư pháp chưa đáp ứng yêu cầu giải quyết những vấn đề pháp lý quốc tế... Bên cạnh đó, nhiều vấn đề mới, chưa có tiền lệ phát sinh trong bối cảnh diễn biến mau lẹ, khó dự báo của tình hình thế giới và khu vực, sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, xu thế hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện của đất nước... cũng đòi hỏi công tác cải cách tư pháp cần phải tiếp tục được đẩy mạnh để đáp ứng tốt hơn yêu cầu của tình hình mới”.
Chủ tịch Quốc hội cho biết, kế thừa và phát huy những kết quả đạt được trong công tác tư pháp và cải cách tư pháp thời gian qua, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đặt ra nhiệm vụ: “Xây dựng nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”; đồng thời khẳng định: “Hoạt động tư pháp phải có trọng trách bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân”. Đây vừa là yêu cầu cấp bách, vừa là mục tiêu, nhiệm vụ lâu dài của cải cách tư pháp, là nội dung “cốt lõi” của Chiến lược xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045.
Đại biểu phát biểu tại hội thảo
Phát biểu tại hội thảo, các chuyên gia nhấn mạnh, mục tiêu cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam xác định cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị, phải xây dựng nền tư pháp độc lập, vô tư, khách quan và công bằng; trong sạch, dân chủ, hiện đại, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, nền tư pháp phải được giao đủ thẩm quyền và đủ năng lực xử lý vi phạm pháp luật đảm bảo quyền tài pháp quốc gia, giữ vững niềm tin của người dân vào công lý. Cải cách tư pháp phải nhất quán, thường xuyên liên tục.
Phát biểu tham luận tại hội thảo, GS.TS Võ Khánh Vinh, Ủy viên Hội đồng khoa học của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam cho rằng, mục tiêu cải cách tư pháp ở nước ta giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 là xây dựng nền tư pháp độc lập, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, chuyên nghiệp, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả, chất lượng, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.
Theo đó, việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách tư pháp cần quán triệt và tuân thủ nghiêm các quan điểm: phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, giữ vững bản chất Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa; phù hợp với các đòi hỏi của của xã hội pháp quyền, Nhà nước pháp quyền; phù hợp với bản chất, đặc điểm, nội dung, quy luật phát triển của tư pháp ở nước ta; lấy cải cách tòa án làm trung tâm, hoạt động xét xử làm trọng tâm, tòa án là biểu tượng, chỗ dựa của nhân dân; đồng thời cải cách tư pháp phải được tiến hành với quyết tâm chính trị cao, khẩn trương, đồng bộ, xác định rõ trọng tâm, trọng điểm.
GS.TS. Hoàng Thế Liên, nguyên Thứ trưởng Thường trực Bộ Tư pháp cho rằng, hệ quan điểm chỉ đạo cải cách tư pháp đáp ứng yêu cầu xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam gồm một số nội dung trọng tâm là:
Thứ nhất, cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng, bảo đảm sự ổn định chính trị, bản chất Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; quyền lực Nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thứ 2, cải cách tư pháp phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, gắn với đổi mới công tác lập pháp, cải cách hành chính.
Thứ 3, cải cách tư pháp trên cơ sở xác định tư pháp là xét xử, cơ quan tư pháp là tòa án, được giao đủ thẩm quyền để xử lý, pháp quyết bằng thủ tục tư pháp công khai đối với mọi vi phạm pháp luật, mọi tranh chấp phát sinh trong đời sống xã hội. Viện Kiểm sát nhân dân, các cơ quan điều tra, thi hành án và các thiết chế bổ trợ tư pháp là các cơ quan thực hiện hoạt động tư pháp, phải được đổi mới đồng bộ với hệ thống tòa án, phục vụ đầy đủ, kịp thời hoạt động xét xử của tòa án.
Thứ 4, cải cách tư pháp trên cơ sở củng cố, phát triển và bảo đảm trên thực tế các nguyên tắc pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa, các nguyên tắc đặc trưng trong tổ chức và hoạt động tố tụng tư pháp.
Thứ 5, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong quá trình cải cách tư pháp. Các cơ quan tư pháp, cơ quan bổ trợ tư pháp phải đặt dưới sự giám sát của các cơ quan dân cử và nhân dân. Cuối cùng, cải cách tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm với những bước đi vững chắc.
Theo PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn, nguyên Ủy viên chuyên trách, Thường trực Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương, cải cách tư pháp trong giai đoạn tới cần được tiếp tục tiến hành và tiến hành mạnh mẽ, toàn diện và triệt để hơn.
Phương hướng cải cách tư pháp đến năm 2030, định hướng đến năm 2045 là: cải cách tư pháp tiếp tục hướng vào trọng tâm là tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân; xáy định rõ mô hình cơ quan công tố và cơ quan điều tra; đẩy mạnh xã hội hóa thi hành án dân sự và hoạt động bổ trợ tư pháp; bảo đảm liêm chính tư pháp; phát huy vai trò của các cơ quan tư pháp trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Các giải pháp đề ra gồm: cải cách tư pháp tiếp tục hướng vào trọng tâm là tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân; đổi mới cơ quan điều tra và viện kiểm sát nhân dân; đẩy mạnh xã hội hóa thi hành án dân sự và hoạt động bổ trợ tư pháp; bảo đảm liêm chính tư pháp và phát huy vai trò của tư pháp trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực.
GS.TS Phan Trung Lý, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đề xuất 8 giải pháp để hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực Nhà nước trong thực hiện quyền tư pháp. Thứ nhất, cần mở rộng thẩm quyền của Tòa án trong xét xử các loại vi phạm, tranh chấp. Thứ hai, Tòa án chỉ nên thực hiện chức năng xét xử, không nên thực hiện những thẩm quyền thuộc chức năng buộc tội, chứng minh tội phạm; tăng cường tranh tụng trong hoạt động xét xử, phải lấy kết quả tranh tụng tại phiên tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án. Thứ ba, sửa đổi bổ sung các quy định về thẩm quyền của từng cơ quan tiến hành tố tụng, các quy định nhằm mở rộng tối đa tính tranh tụng của phiên tòa sơ thẩm, lấy kết quả tranh tụng lại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản bán. Thứ tư, hoàn thiện quy định của pháp luật để vừa bảo đảm yêu cầu kiểm soát, vừa bảo đảm tính độc lập xét xử của tòa án. Thứ năm, hoàn thiện quy định về vai trò của Chủ tịch nước trong kiểm soát quyền tư pháp. Thứ sáu, xây dựng mô hình Hội đồng Tư pháp quốc gia. Thứ 7, thành lập Tòa án sơ thẩm khu vực hoặc Tòa án ở cụm huyện để giải quyết nhiều vấn đề chung trong tổ chức và hoạt động của Tòa án ở huyện hiện nay. Cuối cùng, cần xác định rõ vị trí, vai trò của Viện kiếm sát nhân dân; cần có quy định xác định rõ phạm vi, nội dung và phương thức thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát trong hoạt động xét xử vụ án.
Nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu
Tham gia thảo luận tại Hội thảo, nguyên Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu nhận định, tầm nhìn đến 2045 đối với cải cách tư pháp là rất đúng đắn, tuy nhiên đại biểu đề nghị bổ sung thêm một số nội dung, đó là nền tư pháp Việt Nam chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, liêm chính, trung thành phụng sự tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, trong xây dựng chiến lược cải cách tư pháp phải đảm bảo hai thành tố là dân chủ và pháp quyền. Đồng thời nhấn mạnh, cải cách tư pháp phải đồng bộ với cải cách lập pháp và cải cách hành chính.
Phát biểu kết luận Hội thảo, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc – Trưởng ban Chỉ đạo đề án nhấn mạnh, về mục tiêu, quan điểm, định hướng cải cách tư pháp, nhiều đại biểu cho rằng Chiến lược cải cách tư pháp đề ra trong Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị có nhiều nội dung có tính chiến lược cao và phù hợp xu thế thời đại; từ đó, đề nghị tiếp tục nghiên cứu kỹ lưỡng, kế thừa một cách khoa học các mục tiêu, quan điểm, định hướng cải cách tư pháp của Nghị quyết số 49-NQ/TW, kết hợp với việc vận dụng sáng tạo những tiến bộ của nền tư pháp các nước trên thế giới vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để thực hiện thành công chủ trương, đường lối cải cách tư pháp trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc
Chủ tịch nước cho rằng, qua thảo luận, cơ bản chúng ta thống nhất một số quan điểm cải cách tư pháp trong thời gian tới như sau:
Thứ nhất, cải cách tư pháp phải đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, chặt chẽ của Đảng, giữ vững bản chất Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; phải có quyết tâm chính trị cao để vượt qua thách thức, loại bỏ định kiến, rào cản nhận thức và tư tưởng cục bộ, kiên quyết, kiên trì cải cách vì một nền tư pháp công bằng, công lý, phục vụ nhân dân.
Thứ hai, cải cách tư pháp phải được tiến hành đồng bộ với đổi mới lập pháp và cải cách hành chính để bảo đảm nguyên tắc quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thứ ba, cải cách tư pháp hướng tới bảo đảm độc lập của tư pháp để bảo vệ, bảo đảm tốt hơn dân chủ, công bằng, công lý, quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân, thượng tôn pháp luật.
Thứ tư, cải cách tư pháp phải kế thừa những thành tựu đã đạt được của nền tư pháp Việt Nam xã hội chủ nghĩa, tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiến bộ, những kinh nghiệm quý của các quốc gia phù hợp với điều kiện Việt Nam và yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới.
Thứ năm, cải cách tư pháp phải được tiến hành khẩn trương, đồng bộ, toàn diện; xác định rõ những nội dung trọng tâm, trọng điểm; có chương trình kế hoạch, lộ trình cải cách phù hợp; xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện cải cách tư pháp.
Chủ tịch nước yêu cầu Tổ Biên tập xây dựng Đề án tổng hợp đầy đủ các ý kiến của các đại biểu, tiếp thu tối đa các đề xuất, kiến nghị về mục tiêu, định hướng, nhiệm vụ, giải pháp cải cách tư pháp mà các chuyên gia, nhà khoa học đã đưa ra để hoàn thiện dự thảo Đề án./.