CHỦ TỊCH QUỐC HỘI TRẦN THANH MẪN: CỤ THỂ HÓA TỪNG DỰ ÁN, ĐỀ MỤC ĐẢM BẢO TRIỂN KHAI HIỆU QUẢ CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA VỀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA GIAI ĐOẠN 2025 -2035
Toàn cảnh Phiên thảo luận tại Tổ 13
Rà soát để bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống văn bản pháp luật
Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) gồm 09 chương 102 điều, tăng 02 chương 29 điều so với Luật Di sản văn hóa hiện hành (07 chương 73 điều). Trên cơ sở kế thừa các nội dung còn phù hợp của Luật Di sản văn hóa năm 2001, được sửa đổi, bổ sung năm 2009, Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) tập trung vào 03 nhóm chính sách đã được Chính phủ thông qua tại Nghị quyết số 159/NQ-CP. Việc sửa đổi Luật nhằm tiếp tục thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng, khắc phục những khó khăn, vướng mắc, giải quyết các vấn đề phát sinh, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa.
Phát biểu tại Phiên thảo luận Tổ, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cho rằng, Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) lần này có phạm vi tác động lớn, liên quan tới nhiều ngành, lĩnh vực, vì vậy phải tiếp tục rà soát để bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống văn bản pháp luật về di sản văn hóa với các luật khác (như Luật Dân sự, Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Quy hoạch, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Xây dựng, Luật Nhà ở…); đặc biệt là quy định về thủ tục hành chính, điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực này.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu tại Phiên thảo luận Tổ 13
Quy định cụ thể về thẩm quyền, tiêu chí xác định các hình thức sở hữu đối với di sản văn hóa
Đối với quy định về quyền sở hữu và các quyền liên quan, Chủ tịch Quốc hội cho biết, Luật Di sản văn hóa hiện hành công nhận 05 hình thức sở hữu di sản văn hóa gồm: Sở hữu nhà nước; sở hữu tập thể; sở hữu chung của cộng đồng; sở hữu tư nhân và các hình thức sở hữu khác về di sản văn hóa; đồng thời, quy định quyền và nghĩa vụ đối với chủ sở hữu di sản văn hóa.
Theo Chủ tịch Quốc hội, Dự thảo Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) đã chuyển từ quy định “sở hữu nhà nước” thành “sở hữu toàn dân”. Đây là vấn đề cần được quan tâm thảo luận, cho ý kiến kỹ lưỡng. Đồng thời, Dự thảo Luật chưa xác định thẩm quyền, tiêu chí công nhận loại hình sở hữu. Trên thực tế có khả năng xảy ra trường hợp cá nhân, tổ chức sở hữu di sản văn hóa là di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia nhưng khi có tranh chấp về sở hữu lại chưa có chế tài xử lý.
“Vì vậy, dự thảo Luật cần quy định cụ thể thẩm quyền, tiêu chí xác định các hình thức sở hữu đối với di sản văn hóa; nguyên tắc quản lý, thẩm quyền và trách nhiệm bảo vệ, phát huy di sản văn hóa; giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu đối với di sản văn hóa (nếu có), đồng thời phát huy tối đa vai trò của chủ sở hữu trong công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa”, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh.
Cần phải có phương án để bảo vệ di tích nghiêm ngặt
Liên quan đến quy định về khu vực bảo vệ của di tích; phân cấp trong việc cho phép đầu tư, xây dựng công trình trong khu vực bảo vệ di tích, Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, Luật hiện hành và Dự thảo luật thống nhất về nguyên tắc: khu vực bảo vệ 1 của di tích là vùng có các yếu tố gốc cấu thành di tích, phải được bảo vệ nghiêm ngặt. Điều 26, Điều 27 dự thảo Luật quy định khu vực bảo vệ 1 của di tích được bảo vệ nguyên trạng về mặt bằng và không gian đối với những yếu tố gốc cấu thành di tích.
Các vị đại biểu Quốc hội tham dự Phiên thảo luận tại Tổ 13
Tuy nhiên, dự thảo Luật lại quy định cho phép đầu tư, xây dựng công trình, nhà ở riêng lẻ ở trong và ngoài khu vực bảo vệ di tích; đồng thời phân cấp, phân quyền cho địa phương (Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch) quyết định đối với dự án này ở các di tích được xếp hạng các cấp độ. Vì vậy, Chủ tịch Quốc hội đề nghị, cần phải có phương án để bảo vệ di tích nghiêm ngặt, nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi đối với người dân đang sinh sống trong khu vực di tích.
Cũng theo Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, việc bảo tồn, tôn tạo đối với các khu di tích, các vấn đề liên quan đến xây mới, cấp phép phải được quan tâm, chú trọng đảm bảo phù hợp, đúng quy định.
Trước đó, theo Tờ trình của Chính phủ, Luật Di sản văn hóa được Quốc hội ban hành năm 2001, sửa đổi, bổ sung năm 2009 là bước cụ thể hóa chính sách về bảo tồn di sản văn hóa theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa VIII, cùng các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Sau 20 năm thực hiện, sự nghiệp bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc đã đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, trước những yêu cầu và đòi hỏi cấp bách từ thực tế đang diễn ra, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về di sản văn hóa cũng dần bộc lộ một số hạn chế, bất cập như: Một số quy định của Luật còn mang tính nguyên tắc chung; Một số quy định của Luật còn chồng chéo, bất cập, có tính khả thi chưa cao hoặc không còn phù hợp; Một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn chưa được Luật điều chỉnh;… Dự án Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) được Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến lần đầu tại Kỳ họp thứ 7 và dự kiến xem xét, thông qua tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa XV./.