Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân đọc diễn văn tại Lễ kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Trưởng ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn
Kính thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam;
Kính thưa các đồng chí lão thành cách mạng, các Mẹ Việt Nam anh hùng, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân;
Thưa các quý vị đại biểu khách quý và toàn thể đồng bào, đồng chí,
Hôm nay, tại Thủ đô Hà Nội, chúng ta long trọng tổ chức Lễ kỷ niệm 130 năm Ngày sinh cụ Bùi Bằng Đoàn (1889-2019), nguyên Trưởng ban Thường trực Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Chủ tịch Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam), một chí sĩ yêu nước nhiệt thành, nhà lãnh đạo mẫn cán của Quốc hội và Chính phủ, người cộng sự gần gũi, thân thiết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, người con ưu tú của quê hươngThủ đô Hà Nội.
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, tôi xin gửi tới các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,các đồng chí lão thành cách mạng, Mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; các quý vị đại biểu, thân nhân gia đình cụ Bùi Bằng Đoàn, cùng toàn thể đồng bào, đồng chí cả nước lời chào thân thiết, lời chúc sức khỏe và những tình cảm sâu sắc nhất.
Thưa các quý vị đại biểu,
Thưa đồng bào, đồng chí,
Chí sĩ yêu nước Bùi Bằng Đoàn sinh tháng 9 năm 1889 trong một gia đình có truyền thống khoa bảng tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay là Thành phố Hà Nội). Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước đang bị xâm lược, chứng kiến phong trào Cần vương kháng Pháp thất bại; các phong trào đấu tranh yêu nước lần lượt bị thực dân Pháp đàn áp, khủng bố đẫm máu, nhân dân ta lâm vào cảnh nô lệ, lầm than, chí sĩ Bùi Bằng Đoàn đã sớm tiếp thu truyền thống bất khuất của dân tộc. Với tấm lòng yêu nước thương dân sâu sắc, từ lúc còn là một vị quan của Triều đình nhà Nguyễn, đến khi trở thành nhà lãnh đạo chủ chốt của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, cụ Bùi Bằng Đoàn luôn nêu cao tinh thần vì nước, vì dân, xả thân vì nghĩa lớn. Cụ là một trong những tấm gương tiêu biểu của tầng lớp nhân sĩ, trí thức Việt Nam đi từ chủ nghĩa yêu nước, đến với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc.
Là người ham học, có tri thức uyên bác, năm 1906 cụ Bùi Bằng Đoàn (khi đó mới 17 tuổi) đã đỗ Cử nhân. Sau đó, Cụ được nhận vào học và tốt nghiệp Thủ khoa Trường Hậu Bổ.
Khi làm quan trong triều đình Huế, từ Tri huyện tập sự ở huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định, đến Án sát tỉnh Lạng Sơn; Án sát tỉnh Bắc Ninh; Bố chính tỉnh Phúc Yên, rồi Tuần phủ tỉnh Cao Bằng, tỉnh Ninh Bình... Cụ Bùi Bằng Đoàn nổi tiếng là vị quan thanh liêm, chính trực. Ngay trên công đường, cụ cho treo Bảng thông báo công khai "không nhận quà biếu" và nghiêm cấm người nhà nhận quà biếu. Điều này thể hiện rõ phẩm chất đạo đức “liêm”, “chính” của một bậc danh Nho chân chính.
Đối với nhân dân, cụ Bùi Bằng Đoàn có mối quan hệ tình sâu, nghĩa nặng, bất luận trong hoàn cảnh nào, Cụ cũng đứng về phía nhân dân, hết lòng bảo vệ người dân. Khi làm Tri phủ Xuân Trường (Nam Định), Cụ là người đã đề xuất và tổ chức đắp con đê Bạch Long để ngăn nước mặn, tạo ra một vùng đất đai rộng lớn, màu mỡ cho nhân dân trồng lúa, trồng dâu. Ghi nhận công đức to lớn của Cụ, nhân dân địa phương đã tổ chức lễ tế sống vị “Phụ mẫu chi dân” ngay tại nơi Cụ về nhậm chức và làm việc.
Năm 1925, khi đang làm tri phủ Nghĩa Hưng (tỉnh Nam Định), Cụ được mời lên Hà Nội làm thông ngôn cho phiên tòa đại hình xử vụ án Cụ Phan Bội Châu. Với quyết tâm khép tội cụ Phan vào “tội chống lại Chính phủ Bảo hộ”, chính quyền thuộc địa đã đặt ra 1.997 câu thẩm vấn cho chí sĩ Phan Bội Châu. Để bảo vệ cụ Phan Bội Châu, với tính cách cương trực của mình, Cụ Bùi Bằng Đoàn đã phiên dịch rõ ràng, đầy đủ những lý lẽ phản bác đanh thép của Cụ Phan Bội Châu trước phiên tòa, nên mặc dù rất muốn kết tội chung thân đối với nhà yêu nước Phan Bội Châu, nhưng tòa án đã buộc phải tuyên án với mức đưa đi “an trí ở Huế”.
Năm 1928, trước việc báo chí lên án mạnh mẽ tình cảnh bị bóc lột dã man của phu đồn điền ở miền Nam, Triều đình Huế đã cử Cụ Bùi Bằng Đoàn vào Nam Bộ thanh tra các đồn điền cao su của người Pháp. Sau một thời gian làm việc sát sao, cụ đã viết bản báo cáo dày đến 100 trang bằng tiếng Pháp, nêu rõ thực trạng khổ ải và những điều bất công trong chính sách đối xử với phu đồn điền. Bản kiến nghị của Cụ tuy không được nhà cầm quyền Pháp chấp nhận toàn bộ, nhưng cũng phần nào giảm được sự hà khắc trong chính sách của Pháp đối với những phu đồn điền cao su thời đó. Sự kiện này đã cho thấy sự chính trực và dũng cảm của cụ trong việc lên tiếng bênh vực, bảo vệ quyền lợi của những người dân yếu thế trong xã hội.
Vào tháng 5 năm 1933, Cụ Bùi Bằng Đoàn được bổ nhiệm làm Hình bộ Thượng thư, đồng thời tham gia Viện Cơ mật - cơ quan cao nhất trong hệ thống quyền lực dưới triều vua Bảo Đại. Trên cương vị mới, với sự am hiểu về luật pháp và tư tưởng tiến bộ, Cụ Bùi Bằng Đoàn đã có nhiều sáng kiến cải cách tư pháp, trong đó có việc bãi bỏ những quy định không phù hợp ở các tỉnh, đạo ở Trung Kỳ. Cụ đã chỉ đạo và trực tiếp soạn thảo các bộ luật mới của triều đình nhà Nguyễn có nội dung tiến bộ, như: Luật Hình sự (ngày 03/7/1933); Quy tắc tố tụng dân sự và hình sự (ngày 02/8/1933), Luật Dân sự (tháng 7/1936, tháng 9/1939).... Đồng thời, Cụ đã cải tiến các hoạt động của Bộ Hình, đặc biệt là hoạt động của các tòa án và nhân sự theo hướng tân tiến.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp (ngày 09/3/1945), Vua Bảo Đại xuống chiếu thành lập Chính phủ mới. Chán ghét cảnh quan trường trong thời buổi loạn lạc, Cụ Bùi Bằng Đoàn đã từ chối tham gia Chính phủ mới và xin từ quan về quê nghỉ ngơi. Tuy nhiên, Chính phủ Nam triều đã nhất quyết không chấp nhận và giao cho Cụ giữ chức Chánh nhất Tòa Thượng thẩm Hà Nội. Trong thời gian đó, Mặt trận Việt Minh đã có liên hệ và mời cụ làm Hội trưởng Hội bảo vệ tù chính trị.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Vua Bảo Đại thoái vị, cụ Bùi Bằng Đoàn lui về vui sống ở quê nhà. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập trong điều kiện cách mạng gặp muôn vàn khó khăn bởi sự chống phá của thù trong, giặc ngoài. Với tinh thần đoàn kết dân tộc và tư tưởng “tìm người tài đức” phục vụ cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì nhiều lần viết thư tay, cử người về Hà Đông để mời cụ Bùi tham gia làm Cố vấn cho Chính phủ. Trong bức thư đề ngày 17/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tôi tài đức ít ỏi và trách nhiệm nặng nề, thấy Ngài học vấn cao siêu kinh nghiệm phong phú. Vậy nên tôi mời ngài làm cố vấn cho tôi để giúp thêm ý kiến trong công việc hưng lợi, trừ họa cho nước nhà, dân tộc”.
Nể phục và mến mộ tài đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, Cụ Bùi Bằng Đoàn lại rời quê, dấn thân theo con đường cách mạng. Với tài năng, đức độ và tri thức uyên bác của mình, cụ Bùi Bằng Đoàn đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời đảm nhiệm nhiều công việc và chức vụ quan trọng. Cụ Bùi Bằng Đoàn đã trở thành một trong 10 người nằm trong Ban Cố vấn của Chính phủ mà Hồ Chí Minh đích thân đề nghị trong phiên họp của Chính phủ ngày 14/11/1945.
Trong những ngày đầu thành lập, chính quyền cách mạng hoạt động còn nhiều bỡ ngỡ, khiếm khuyết. Để bộ máy chính quyền nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64 - SL, thành lập Ban Thanh tra đặc biệt là tiền thân của ngành Thanh tra Việt Nam ngày nay. Sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử Cụ Bùi Bằng Đoàn và ông Cù Huy Cận vào Ban Thanh tra đặc biệt,trong đó Cụ Bùi Bằng Đoàn được cử là Trưởng ban. Đó là sự lựa chọn thể hiện tầm nhìn sáng suốt và sự tín nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với Cụ Bùi Bằng Đoàn, đồng thời thể hiện tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, nghệ thuật trọng dụng nhân tài của Người trong việc huy động nhân sĩ, trí thức tham gia công cuộc kiến thiết đất nước.
Tuy thời gian hoạt động không dài, nhưng Ban Thanh tra Đặc biệt dưới sự chỉ đạo của Cụ Bùi Bằng Đoàn đã triển khai và giải quyết nhiều vấn đề quan trọng, mang lại uy tín cho Đảng, Chính phủ, sự tin tưởng của nhân dân đối với chính quyền cách mạng.
Vào tháng 1 năm 1946, Cụ Bùi Bằng Đoànđược bầu làm đại biểu Quốc hội của tỉnh Hà Đông và tháng 11 năm đó, Cụ đã được Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại kỳ họp thứ 2 tín nhiệm bầu giữ chức Trưởng Ban thường trực Quốc hội, thay Cụ Nguyễn Văn Tố đi nhận nhiêm vụ mới.
Trong thời gian giữ cương vị Trưởng ban Thường trực Quốc hội - người đứng đầu cơ quan lập pháp, với sự hiểu biết sâu rộng cả về lý luận và thực tiễn, Cụ Bùi Bằng Đoàn đã luôn sát cánh bên cạnh Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh để thực thi những nhiệm vụ mà Quốc hội giao phó.
Vào thời điểm đó, Cụ và Ban thường trực Quốc hội đã nhận thức rõ nhiệm vụ của Quốc hội là tập trung toàn lực cho cuộc kháng chiến, nên dù không thể tổ chức các cuộc họp thường xuyên, nhưng đại biểu Quốc hội với tư cách là đại diện của nhân dân đã kết nối, động viên quần chúng nhân dân đấu tranh với nhiều hình thức và khả năng sẵn có. Mặt khác, nhằm huy động lực lượng, sức người, sức của cho cuộc kháng chiến, Cụ đã có nhiều cuộc kinh lý đến tận các địa phương để thăm hỏi nhân dân, gửi thư thăm hỏi đồng bào. Trong thư gửi đồng bào các dân tộc thiểu số tỉnh Lào Cai, Cụ đã viết: “Hai mươi nhăm triệu đồng bào ta cùng chung Tổ quốc, cùng chung giang san, cùng chung vận mệnh, cuộc kháng chiến này là cốt bảo toàn vận mệnh của chúng ta, chúng ta có giữ được chủ quyền, có bảo vệ được hoàn toàn lãnh thổ của nước ta thì mới giữ được vận mệnh của dân tộc ta”.
Với vai trò là người đứng đầu cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, do cử tri cả nước bầu nên, Cụ Bùi Bằng Đoàn đã tích cực đấu tranh phản bác những luận điệu của thực dân Pháp và bè lũ tay sai về tính hợp hiến, hợp pháp của Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu. Bằng kiến thức uyên bác và bản lĩnh chính trị vững vàng, Cụ đã khẳng định: “quốc dân ta chỉ có một Chính phủ là Chính phủ Hồ Chí Minh do Quốc dân công nhận tại kỳ họp tháng 11 năm 1946”. Lời tuyên bố đanh thép của Cụ là một đòn giáng mạnh vào âm mưu chia rẽ của chính quyền thực dân và mưu toan lập chính quyền bù nhìn thân Pháp hòng làm giảm uy tín của Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.
Trong những ngày ở chiến khu Việt Bắc, trên cương vị Trưởng Ban Thường trực Quốc hội, Cụ Bùi Bằng Đoàn đã luôn ở bên cạnh Chủ tịch Hồ Chí Minh và tham dự các cuộc họp của Hội đồng Chính phủ, góp ý kiến với Chính phủ và giám sát các hoạt động của Chính phủ trong mọi công tác kháng chiến. Cụ đã có những đóng góp vào việc cải tổ nhân sự của Chính phủ; thực hiện chính sách sản xuất tiết kiệm, chính sách thuế nông nghiệp, chính sách ruộng đất; chỉ đạo các đoàn đại biểu khu vực kiểm tra tình huống, lấy nguyện vọng của nhân dân góp ý cho Quốc hội và Chính phủ trong lãnh đạo cuộc kháng chiến. Cụ cũng đã tham gia Ban vận động thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên - Việt) để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng cường lực lượng cách mạng.
Thưa các quý vị đại biểu,
Thưa đồng bào, đồng chí,
Cuối năm 1948, đầu năm 1949, Cụ Bùi Bằng Đoàn lâm bệnh nặng. Được tin Cụ ốm, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo đưa Cụ vào vùng tự do Thanh Hóa để yên tâm chữa bệnh. Trong thời gian chữa bệnh, tuy xa Trung ương, xa Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhưng qua thư từ, liên lạc, Cụ Bùi Bằng Đoàn vẫn thường xuyên được Người thăm hỏi, động viên và bàn luận về những vấn đề quốc sự. Đáp lại, Cụ Bùi cũng thường xuyên gửi thư góp ý cho Trung ương, cho Chính phủ và luôn tin tưởng vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta dưới sự lãnh đạo của Trung ương và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sau khi Hà Nội được giải phóng, Cụ Bùi Bằng Đoàn được Trung ương đón về ở tại nhà số 10 phố Trần Hưng Đạo, gần Bệnh viện Quân đội 108 để tiện chữa bệnh. Từ khi Cụ Bùi chuyển về Hà Nội, Bác Hồ thường xuyên đến thăm cụ và có hôm hai người đàm đạo tới tận khuya.
Ngày 13/4/1955, Trưởng ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn đã từ trần. Cụ đi xa, nhưng tấm gương yêu nước, thương dân, tận tụy với công việc và sự liêm khiết, chính trực của Cụ cùng những cống hiến to lớn mà Cụ đã để lại cho Quốc hội, cho Chính phủ, cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc sẽ mãi được khắc ghi.
Thưa đồng bào, đồng chí,
Xuất phát từ tâm nguyện đặt Tổ quốc lên trên tất cả, với tinh thần “Dĩ công vi thượng”, Cụ Bùi Bằng Đoàn - một vị quan Thượng thư trong bộ máy của triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã vượt qua những định kiến của thời cuộc để tham gia chính quyền cách mạng. Bằng tấm lòng nhiệt thành yêu nước, thương dân và sự cảm phục tài đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cụ đã đem hết sức lực, tài năng phụng sự Tổ quốc và dân tộc. Trong những năm tháng khó khăn, ác liệt của cách mạng Việt Nam, Cụ không quản ngại hy sinh, sẵn sàng đảm trách các chức vụ quan trọng. Trên bất cứ cương vị nào, Cụ cũng tận tâm, tận lực hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Trưởng Ban thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn là dịp để chúng ta tri ân và tưởng nhớ công lao, cống hiến to lớn của Cụ đối với nhân dân và cách mạng Việt Nam. Cụ Bùi Bằng Đoàn chính là một tấm gương tiêu biểu của một nhân sĩ yêu nước chân chính, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Tinh thần làm việc tận tụy, hy sinh vì nước, vì dân; sống khiêm tốn, giản dị, không màng danh lợi, phú quý của Cụ là tấm gương sáng để các đại biểu Quốc hội, cùng cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân ta học tập. Tấm gương của cụ Bùi Bằng Đoàn góp phần quan trọng vào việc bồi dưỡng lý tưởng, truyền thống cách mạng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng đất nước
Noi gương cụ Bùi Bằng Đoàn, trong mọi hoạt động và trên từng cương vị công tác, mỗi cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân phải luôn luôn đặt lợi ích của đất nước, của dân tộc, của nhân dân và của Đảng lên trên hết; tăng cường sự đoàn kết thống nhất để giữ vững nền độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Noi gương Cụ, chúng ta nguyện đi theo con đường cách mạng mà Đảng, Dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh và các bậc tiền bối trong đó có cụ Bùi Bằng Đoàn đã lựa chọn, ra sức xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; xứng đáng với sự cống hiến, hy sinh của các anh hùng tiên liệt vì sự trường tồn, phát triển của quốc gia, dân tộc.
Kính chúc các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các quý vị đại biểu, đồng bào, đồng chí, thân nhân gia đình cụ Bùi Bằng Đoàn luôn mạnh khỏe, hạnh phúc và thành công.
Xin trân trọng cảm ơn!