NHIỆM KỲ 2016-2021, XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ KIẾN TẠO PHÁT TRIỂN, LIÊM CHÍNH, HÀNH ĐỘNG, PHỤC VỤ NHÂN DÂN

16/03/2021

Sáng ngày 16/03/2021, trong Phiên họp Toàn thể lần thứ 34 của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, thay mặt Chủ nhiện Văn phòng Chính phủ, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, bà Mai Thị Thu Vân, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình bày Báo cáo tóm tắt tổng kết công tác của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021.

Tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2016 - 2019 đạt 6,8% nằm trong 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất thế giới.

Bà Mai Thị Thu Vân, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ khẳng định, với phương châm xuyên suốt là xây dựng Chính phủ kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động, phục vụ Nhân dân, trong suốt nhiệm kỳ 2016-2021, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng, Nhà nước và Nhân dân, chấp hành nghiêm túc sự lãnh đạo của Đảng, sự giám sát của Quốc hội; thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn và giải quyết công việc đúng phạm vi, thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật và Quy chế làm việc của Chính phủ. Chính phủ luôn đoàn kết, thống nhất, chung sức, đồng lòng, nỗ lực vượt qua mọi khó khăn, thách thức, với tinh thần đột phá, dám nghĩ, dám làm, năng động, đổi mới, sáng tạo, kiên định, quyết tâm hoàn thành cao nhất các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.

Trong quản lý, điều hành, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ luôn sâu sát thực tiễn, nhận diện đúng tình hình, tranh thủ thời cơ, chủ động biến thách thức thành cơ hội, tăng cường đối thoại, lắng nghe ý kiến người dân, doanh nghiệp; chủ động rà soát, tháo gỡ các “điểm nghẽn” thể chế, chủ động kiến thiết các cơ chế, chính sách, pháp luật, khơi thông, thúc đẩy các động lực tăng trưởng, bảo đảm giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; vừa nhạy bén, quyết liệt chỉ đạo xử lý kịp thời, hiệu quả nhiều vấn đề phát sinh, vừa tập trung chỉ đạo thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, căn cơ trong trung và dài hạn. Chính phủ tập trung cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính, phương thức làm việc của các cơ quan hành chính nhà nước gắn với đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử, hương tới Chính phủ số, góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, giảm chi phí, phiền hà cho người dân và doanh nghiệp. Chính phủ tích cực phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị xã hội và các cơ quan tư pháp nhằm phát huy tinh thần đoàn kết, thống nhất chung sức đồng lòng của cả hệ thống chính trị trong quản lý, điều hành phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Phiên họp toàn thể lần thứ 34 của Ủy ban Pháp luật tại điểm cầu Nhà Quốc hội.

Trong nhiệm kỳ qua, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt là năm 2020 nhưng với sự lãnh đạo, chỉ đạo sát sao của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, sự ủng hộ, giám sát của Quốc hội, sự đóng góp to lớn, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cộng đồng doanh nghiệp, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện với nhiều điểm mới vượt trội và dấu ấn nổi bật trong giai đoạn 2016-2021, tô đậm thêm thành quả 35 năm đổi mới của đất nước, được bạn bè quốc tế đánh giá cao, củng cố niềm tin vững chắc vào những giá trị truyền thống, bản lĩnh, khí phách, ý chí, tinh thần vượt khó, vươn lên của dân tộc ta; vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, tạo nguồn lực và động lực mới để tiếp tục đưa đất nước vững bước trên con đường phát triển nhanh và bền vững.

Năm 2018 và 2019, Chính phủ đều hoàn thành và hoàn thành vượt mức 12/12 chỉ tiêu Quốc hội giao; riêng năm 2020, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch Covid-19, thiên tai, bão, lũ nhưng đã đạt và vượt 10/12 chỉ tiêu Quốc hội giao và thực hiện thành công “mục tiêu kép”, kiểm soát, ngăn chặn hiệu quả dịch Covid-19, tạo điều kiện cho phục hồi, phát triển Kinh tế xã hội. Kinh tế vĩ mô duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát. Tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 2016-2019 đạt 6,8% nằm trong 10 quốc gia tăng trưởng cao nhất thế giới; giai đoạn 2016-2020 đạt 5,99%; năm 2020 kinh tế nước ta vẫn kiên cường duy trì tăng trưởng dương trong khi kinh tế thế giới suy thoái nghiêm trọng, đạt 2,91%, thuộc nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực và thế giới.

Nhìn chung, giai đoạn 2016-2020, tăng trưởng kinh tế toàn diện hơn, đóng góp của các ngành kinh tế và các thành phần kinh tế đồng đều hơn. Trong đó, nông nghiệp khẳng định vai trò “trụ đỡ” của nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19, bảo đảm an ninh lương thực. Bên cạnh vai trò chủ đạo của doanh nghiệp nhà nước, kinh tế tư nhân ngày càng lớn mạnh, trở thành một động lực thúc đẩy phát triển một số ngành, lĩnh vực kinh tế quan trọng. Có nhiều địa phương nỗ lực đổi mới sáng tạo, phấn đấu vươn lên và tăng trưởng bứt phá. Năm 2020, thu ngân sách đạt kết quả ấn tượng trong bối cảnh khó khăn do dịch Covid-19, số hụt thu ngân sách chỉ chiếm khoảng 1/4 so với số dự kiến hụt thu đã báo cáo Quốc hội thông qua; chi ngân sách nhà nước chặt chẽ và tiết kiệm hơn, hiệu quả hơn. Xuất siêu liên tục 5 năm liền, năm sau cao hơn năm trước. Giá trị thương hiệu quốc gia của Việt Nam nằm trong 100 thương hiệu quốc gia giá trị nhất thế giới, vươn lên vị trí thứ 33, tăng 9 bậc so với năm 2019. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện vượt bậc. Thu hút đầu tư có bước tiến mới và đạt nhiều kết quả quan trọng, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Việc làm, thu nhập và đời sống cả về vật chất và tinh thần của người dân ở tất cả các khu vực nông thôn, đô thị, đồng bằng, miền núi ngày càng được cải thiện. Chỉ số phát triển con người HDI được Liên Hợp quốc xếp vào nhóm phát triển cao của thế giới.

Tình trạng bất bình đẳng về thu nhập, về giới được kiểm soát tốt. Nhiều biện pháp, chính sách bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid-19 được thực hiện với phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”; công tác bảo hộ công dân được triển khai kịp thời, hiệu quả. Chất lượng giáo dục và đào tạo được nâng lên. Công tác chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân được quan tâm thực hiện tốt, thể hiện rõ nét qua thành quả trong phòng, chống dịch Covid-19, được quốc tế đánh giá cao. Khoa học, công nghệ và năng lực đổi mới sáng tạo có những tiến bộ đáng khích lệ, từng bước rút ngắn khoảng cách so với khu vực và thế giới.

Chủ động thích ứng và ứng phó kịp thời, hiệu quả trước biến đổi khí hậu, thiên tai, bão, lũ, giảm thiểu thiệt hại cho người dân và nền kinh tế. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế đạt nhiều kết quả quan trọng, góp phần nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Quốc phòng, an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia, an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững. Đặc biệt là tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái và ý chí kiên cường của nhân dân được phát huy mạnh mẽ, khẳng định sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của chế độ ta, dân tộc ta và niềm tin tưởng tuyệt đối của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.

Bà Mai Thị Thu Vân, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trình bày Báo cáo tổng kết của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021.

Bà Mai Thị Thu Vân, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ cho biết, Báo cáo của Chính phủ cũng nêu lên một số tồn tại, hạn chế trong nhiệm kỳ qua, đó là: Tình trạng xin điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội vẫn chưa được khắc phục triệt để, nhất là việc xin bổ sung dự án luật, nghị quyết còn nhiều; trong khi đó nhiều dự án có trong chương trình nhưng chưa được chuẩn bị kịp, phải xin lùi thời gian trình hoặc rút dự án ra khỏi Chương trình. Việc chuẩn bị một số hồ sơ dự án, dự thảo văn bản pháp luật trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc chưa đáp ứng yêu cầu. Việc tổ chức thi hành pháp luật còn chậm; chưa được khắc phục triệt để việc chậm ban hành, nợ đọng văn bản quy định chi tiết.  

Việc thực hiện các trọng tâm cơ cấu lại nền kinh tế trên một số lĩnh vực chưa đạt như kỳ vọng. Phát triển nông nghiệp vẫn còn những yếu tố thiếu bền vững, tăng trưởng chưa vững chắc, việc đổi mới các mô hình tổ chức sản xuất còn chậm; việc sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp tại một số địa phương hiệu quả chưa cao. Phát triển công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Phát triển kinh tế vùng chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, tác động lan tỏa và liên kết của các vùng kinh tế trọng điểm với các vùng lân cận còn thấp, các liên kết nội vùng còn bất cập.

Chất lượng công tác lập, phê duyệt quy hoạch đô thị còn hạn chế. Thị trường bất động sản còn tiềm ẩn rủi ro. Cơ cấu hàng hoá bất động sản, nhất là nhà ở tại các thành phố lớn, nhà ở xã hội chưa đáp ứng được nhu cầu thị trường.  Kỷ luật, kỷ cương quản lý tài nguyên, đất đai, công sản, đầu tư xây dựng cơ bản còn bị buông lỏng ở một số nơi.

Tình trạng ô nhiễm môi trường tại các đô thị, các khu, cụm công nghiệp, làng nghề còn chậm được xử lý; chất lượng không khí tại các đô thị giảm. Tình trạng xâm nhập mặn, sạt lở bờ sông, bờ biển diễn ra nghiêm trọng ở một số địa phương chưa được khắc phục kịp thời.

Bộ máy hành chính nhà nước chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả chưa cao; việc sắp xếp, tổ chức lại bộ máy cơ quan chuyên môn ở một số địa phương thực hiện thí điểm còn chưa đồng bộ, thống nhất. Tiến độ sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã của một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quá trình đổi mới khu vực sự nghiệp công lập chậm so với lộ trình đề ra.

Việc đổi mới lề lối làm việc, kỷ cương, kỷ luật hành chính của một số cơ quan, đơn vị chưa đạt yêu cầu. Công tác quản lý, điều hành một số lĩnh vực chưa hiệu quả, phản ứng chính sách có mặt còn chậm. Một số chính sách hỗ trợ người dân, doanh nghiệp chưa thực sự đi vào cuộc sống. Công tác theo dõi, kiểm tra, đánh giá và tổng kết thực tiễn có lúc còn hình thức, chưa thiết thực.

Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa đồng đều, nhất là năng lực phát hiện vấn đề, tham mưu và đề xuất các biện pháp giải quyết còn hạn chế. Công tác đề bạt, bổ nhiệm, quản lý, sử dụng, luân chuyển cán bộ, công chức ở một số bộ, ngành địa phương chưa đúng quy định, chưa bảo đảm điều kiện, tiêu chuẩn. Công tác thi đua, khen thưởng ở một số nơi chưa được quan tâm đúng mức, còn hình thức, chưa tạo động lực thi đua thực sự. 

Chính phủ đề ra 15 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong thời gian tới.

Báo cáo của Chính phủ cũng nêu lên một số nguyên nhân chủ quan, khách quan của những tồn tại, hạn chế nêu trên và rút ra 5 bài học kinh nghiệm và đề ra 15 nhóm nhiệm vụ trong thời gian tới. Trong đó, tiếp tục chủ động xây dựng Chương trình hành động của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026 phù hợp với thực tế, có tính khả thi cao, với những nhiệm vụ, giải pháp toàn diện, có tính đột phá để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, chỉ tiêu, nhiệm vụ đề ra tại Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm 2021-2030 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2021-2025, Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển KTXH 5 năm 2021-2025.

Tập trung rà soát, khắc phục những hạn chế, bất cập của cơ chế, chính sách, pháp luật, nhất là về đầu tư, kinh doanh, đất đai, hạ tầng; hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, minh bạch và ổn định gắn với nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan hành chính nhà nước các cấp theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả. Trong đó kiện toàn cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhiệm kỳ 2021-2026, bảo đảm thực hiện đúng vị trí pháp lý, chức năng, nhiệm vụ đã được Hiến pháp, Luật Tổ chức Chính phủ quy định. Tập trung rà soát, cải cách thủ tục hành chính nội bộ, gắn với việc đẩy mạnh xây dựng nền hành chính phi giấy tờ và công chức điện tử.

Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự phát triển và vận hành của nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại và hội nhập quốc tế; kiên định mục tiêu ưu tiên bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế và tạo thuận lợi thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.

Tăng cường thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư, nhất là các nguồn lực đầu tư ngoài nhà nước cho phát triển kết cấu hạ tầng.

Thúc đẩy phát triển mạnh mẽ khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo dựa trên thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Gắn kết hài hoà giữa phát triển kinh tế với xã hội, phát huy giá trị văn hoá, con người Việt Nam và sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.

Giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, chủ động giám sát, ứng phó có hiệu quả với biến đổi khí hậu; phát triển nền kinh tế xanh, ít chất thải, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, các-bon thấp….

Triển khai đồng bộ, có hiệu quả quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại, tố cáo và công tác tiếp công dân.

Gắn kết chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng, an ninh, tạo môi trường hoà bình và ổn định cho phát triển đất nước.

Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chấp hành sự giám sát của Quốc hội. Phối hợp chặt chẽ trong việc chuẩn bị nội dung, xây dựng và thực hiện chương trình các kỳ họp Quốc hội, các phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội.

Chính phủ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo Luật Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các quy chế phối hợp có liên quan; phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội trong xây dựng, hoạch định chính sách, pháp luật và thực hiện các nhiệm vụ phát triển KTXH 5 năm 2021- 2025…/.

Lan Hương - Minh Thành