Phần thứ hai
MỘT SỐ TƯ LIỆU CỦA ỦY BAN ĐỐI NGOẠI QUA CÁC THỜI KỲ
QUỐC HỘI KHOÁ XI
Uỷ ban Đối ngoại
--------
Số: 2408/UBĐN
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
------------------------------------
Hà Nội, ngày 24 tháng 11 năm 2006
|
BÁO CÁO THẨM TRA
BÁO CÁO VỀ TÌNH HÌNH THẾ GIỚI
VÀ CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI CỦA NHÀ NƯỚC TA NĂM 2006
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội
Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 2006 nêu rõ một số nhiệm vụ về công tác đối ngoại của Nhà nước ta như sau:
1. Thực hiện có hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá về quan hệ quốc tế. Củng cố và hoàn thiện khuôn khổ quan hệ đã được thiết lập với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và các đối tác quan trọng. Tăng cường hoạt động trên các diễn đàn đa phương trong khu vực và trên thế giới.
2. Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại và công tác ngoại vụ địa phương. Chuẩn bị và tổ chức tốt các hội nghị quốc tế do nước ta đăng cai và chủ trì.
3. Tích cực thực hiện lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, đẩy mạnh đàm phán để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
Uỷ ban Đối ngoại đã họp phiên toàn thể để thẩm tra Báo cáo của Chính phủ về tình hình thế giới và công tác đối ngoại của Nhà nước ta năm 2006. Trên cơ sở hoạt động giám sát trong năm và qua thảo luận, đóng góp ý kiến của các thành viên Ủy ban, các vị đại biểu tham dự phiên họp, chúng tôi nhất trí với nhiều nội dung đề cập trong Báo cáo của Chính phủ. Chính phủ đã bám sát Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ công tác đối ngoại năm 2006. Tuy nhiên, Báo cáo sẽ rõ nét hơn nếu phân tích sâu hơn các vấn đề quốc tế đi đôi với việc chỉ ra những tác động thuận và không thuận đối với nước ta. Trong phần kiểm điểm công tác, bên cạnh việc nêu ra những kết quả đạt được, nên có sự phân tích và chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm và những nguyên nhân chủ yếu. Chúng tôi hoan nghênh bản báo cáo do đồng chí Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao trình bày, đã bổ sung làm rõ thêm nhiều vấn đề Uỷ ban Đối ngoại đã góp ý.
I. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI NĂM 2006
1. Tình hình chính trị - an ninh thế giới
Báo cáo của Chính phủ đã nhận định tổng quát là "Về tổng thể, hoà bình, ổn định và hợp tác phát triển tiếp tục là xu thế lớn. Tuy nhiên, tình hình chính trị - an ninh thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường". Uỷ ban Đối ngoại nhất trí với nhận định đó và muốn nhấn mạnh thêm những mặt không thuận của tình hình thế giới là sự căng thẳng đã tăng lên ở các khu vực có vị trí địa lý, chính trị quan trọng như tại Trung Cận Đông (Irắc, Li-băng, Palétxtin, Iran), Trung Á, Đông Bắc Á (vấn đề hạt nhân của Bắc Triều tiên). Ở khu vực Đông Nam Á, biến cố chính trị ở Thái Lan, tình hình Phi-lipa-pin, Mi-an-ma, Đông Ti-mo diễn biến phức tạp, cho thấy khu vực này còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất ổn định.
Quan hệ giữa các nước lớn vẫn trong cục diện vừa hợp tác, vừa kiềm chế lẫn nhau song tránh đối đầu trực tiếp mà cụ thể là việc giải quyết các vấn đề gay cấn như Bắc Triều Tiên, Iran, Li-băng, Trung Đông. Quan hệ Nhật - Trung xấu đi nay đã được cải thiện sau khi Thủ tướng Nhật Bản Abe thăm Trung Quốc.
2. Tình hình kinh tế thế giới
Uỷ ban Đối ngoại nhất trí với nhận định của Chính phủ là kinh tế thế giới năm 2006 tiếp tục phục hồi và phát triển, đồng thời có nhiều biến động ảnh hưởng với tốc độ và chất lượng tăng trưởng toàn cần. Tình hình trên một mặt có lợi cho xuất khẩu và tranh thủ vốn đầu tư của nước ta, song cũng tác động tiêu cực tới giá cả nhiều mặt hàng nhập khẩu, góp phần làm cho giá cả trong nước gia tăng.
3. Một số thách thức mang tính toàn cầu
Báo cáo của Chính phủ có đề cập nhưng chưa sâu về những vấn đề như tình trạng ô nhiễm môi trường, thiên tai, dịch bệnh, việc khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, nghèo đói v.v... đe doạ nghiêm trọng chất lượng cuộc sống của người dân, đặc biệt tại các nước đang phát triển như ở châu Á, châu Phi, Mỹ La tinh. Uỷ ban Đối ngoại cho rằng đây cũng là những vấn đề quan trọng, phần nào ảnh hưởng tới nước ta cần được tính đến khi hoạch định và thực hiện chính sách của mỗi quốc gia và cả nước ta.
Nhìn chung, bức tranh tổng thể về tình hình thế giới trong năm 2006 tiếp tục đan xen giữa thuận lợi và khó khăn song nói chung vẫn có nhiều thuận lợi đối với nước ta.
II. QUAN HỆ VỚI CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Uỷ ban Đối ngoại đồng tình với nhận định tổng quát về hoạt động đối ngoại của Nhà nước trong Báo cáo của Chính phủ và xin nhấn mạnh rằng, năm 2006 nước ta đã thu được những kết quả quan trọng về mặt đối ngoại. Quan hệ với các nước láng giềng có chung biên giới là Trung Quốc, Lào, Campuchia tiếp tục co bước phát triển mới, toàn diện, đi vào chiều sâu và hiệu quả hơn; quan hệ với các nước trong ASEAN được củng cố; quan hệ với các nước và trung tâm lớn trên thế giới như Nhật Bản, Liên minh Châu Âu, Hoa Kỳ có bước tiến triển đáng kể; quan hệ với nhiều nước khác, kể cả các nước ở châu Phi và Mỹ La tinh được mở rộng. Đặc biệt nước ta đã tổ chức thành công các sự kiện của APEC năm 2006; hoàn tất cuộc đàm phán kéo dài hơn 11 năm và được kết nạp làm thành viên thứ 150 của WTO; được nhóm nước châu Á đề xuất là ứng cử viên duy nhất của khu vực vào ghế uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc khoá 2008-2009.
Những thành tựu đáng tự hào đó đã góp phần củng cố hơn nữa môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao đáng kể vị thế quốc tế của nước ta, thể hiện sinh động việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng và Nghị quyết của Kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoá XI. Tuy nhiên, về quan hẹ với từng nước, nhóm nước cụ thể, Uỷ ban Đối ngoại xin nhấn mạnh thêm những nội dung lớn sau:
1. Quan hệ với các nước láng giềng
a. Một bước tiến mới trong quan hệ với các nước láng giềng là đã thúc đẩy quá trình đàm phán, thoả thuận về các vấn đề biên giới, lãnh thổ. Nhìn lại 20 năm đổi mới thì một trong những thành tựu về đối ngoại là lần đầu tiên trong lịch sử, đã đạt được thoả thuận với các nước láng giềng về biên giới lãnh thổ: với Ma-lai-xia về khai thác chung vùng chồng lấn trên biển; với Thái Lan về vùng chồng lấn trên Vịnh Thái Lan; với Campuchia về biên giới trên bộ (chỉ còn lại một điểm chưa thống nhất) và tiến tới hoàn thành phân giới cắm mốc vào năm 2008; với Lào về biên giới trên bộ; với Trung Quốc về biên giới trên bộ, kể cả việc sẽ hoàn thành phân giới cắm mốc vào năm 2008 và phân định Vịnh Bắc Bộ; cùng ASEAN thoả thuận với Trung Quốc về Tuyên bố cách ứng xử trên Biển Đông.
Về mặt này, nổi lên một số vấn đề cần được quan tâm:
Một là, hoàn tất phân giới cắm mốc với Trung Quốc và Campuchia cũng như tăng độ dày cột mốc biên giới với Lào vào năm 2008 là một việc rất lớn, hết sức phức tạp. Riêng với Trung Quốc, Báo cáo của Chính phủ đã nêu "Ta và Trung Quốc đã tiến hành trao đổi và thoả thuận các biện pháp đẩy nhanh tiến độ, phân giới cắm mốc trên đất liền để có thể hoàn thành vào năm 2008". Trên thực tế, hơn 4 năm qua mới thực hiện được trên 50%, thời gian còn lại là 2 năm nên khả năng kết thúc vào năm 2008 là khó thành hiện thực.
Báo cáo của Chính phủ chưa nêu rõ những khó khăn khách quan, chủ quan, giải pháp cụ thể như kinh phí, lực lượng, sự phối hợp chỉ đạo của các cơ quan Trung ương và các địa hương, kể cả việc chủ động phối hợp với Bạn để giải quyết những vướng mắc nhằm thực hiện bằng được thoả thuận của lãnh đạo cấp cao hai nước. Uỷ ban Đối ngoại đề nghị các đoàn đại biểu quốc hội ở các tỉnh dọc biên giới thực hiện chức năng giám sát đối với
chính quyền các cấp trong việc tiến hành đúng tiến độ công việc hệ trọng này.
Hai là, các hoạt động phạm tội xuyên quốc gia như: buôn lậu, buôn người, vượt biên trái phép, chuyên chở ma tuý, tiền giả, vũ khí v.v... diễn biến rất phức tạp, cả trên bộ lẫn trên biển. Báo cáo của Chính phủ chưa đề cập tới vấn đề này. Uỷ ban Đối ngoại đề nghị Chính phủ phân tích rõ hơn thực trạng của tình hình trên, đặc biệt là ở vùng biên giới có giải pháp đồng bộ nhằm hạn chế tối đa những hoạt động đó, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội.
b. Chúng ta vui mừng nhận thấy rằng, quan hệ kinh tế - thương mại giữa nước ta với các nước láng giềng đã có bước tăng trưởng đáng kể trong năm qua. Nét mới trong quan hệ với Lào và Campuchia là các ngành, các địa phương và các doanh nghiệp của ta đã tăng cường buôn bán và đầu tư trực tiếp sang nước bạn để góp phần phát triển kinh tế, khai thác tiềm năng, tạo công ăn việc làm ở nước bạn, củng cố tình hữu nghị, sự hợp tác lâu dài, bền vững. Tuy nhiên, theo ý kiến của Uỷ ban Đối ngoại, trong lĩnh vực này, Chính phủ cần quan tâm hơn tới các vấn đề sau:
Một là, trong quan hệ với Trung Quốc cần có biện pháp thiết thực, cụ thể để thu hẹp tình trạng nhập siêu hiện nay còn khá lớn; phát huy vai trò chủ động của ta trong chủ trương hình thành "hai hành lang, một vành đai" để chu trương này mang tính thiết thực, đem lại lợi ích cho cả hai bên. Bên cạnh đó cần chú ý tình hình hàng hoá giá quá rẻ và kém chất lượng ồ ạt xâm nhập thị trường nước ta, ảnh hưởng tới sản xuất trong nước. Ta cần đầu tư đồng bộ, nhanh mạnh hơn nhằm phát triển cơ sở hạ tầng của khu kinh tế cửa khẩu của Việt Nam.
Hai là, tuy kim ngạch buôn bán giữa nước ta với Lào và Campuchia đã gia tăng đáng kể song vẫn chưa khai thác tốt tiềm năng, chưa có chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp trao đổi thương mại với các nước bạn, chưa đề ra định hướng, điều phối, quản lý chặt chẽ việc đầu từ sang nước bạn để bảo đảm hiệu quả tổng hợp vì lợi ích lâu dài, cơ bản của cả hai bên, tránh những phức tạp có thể nảy sinh cả trước mắt và lâu dài.
Ba là, về chủ trương xây dựng Tam giác phát triển giữa ba nước trên bán đảo Đông Dương, ta cần chủ động triển khai những thoả thuận đã đạt được và những sáng kiến nhằm thúc đẩy việc xây dựng Tam giác phát triển một cách thống nhất và có hiệu quả, tạo động lực cho sự phát triển tại những vùng khó khăn của cả ba nước, củng cố sự hợp tác giữa ba nước.
c. Hoạt động giao lưu văn hoá giữa Việt Nam với Trung Quốc, Lào, Campuchia cần được đề cập sâu hơn trong Báo cáo của Chính phủ. Năm qua, trên thực tế đã có một số hoạt động tốt, góp phần vun đắp tình hữu nghị giữa nước ta và các nước bạn. Trong thời gian tới, ta cần đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động này, qua đó tăng cường tình hữu nghị, đoàn kết giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước láng giềng, đấu tranh chống mọi hình thức và luận điệu tuyên truyền phản động, gây mất đoàn kết giữa Việt Nam với các nước bạn. Năm 2007, ta và Lào kỷ niệm 45 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao và 30 năm ngày ký hiệp ước hữu nghị hợp tác Việt - Lào, do đó, cần làm tốt công tác tuyên truyền và các hoạt động kỷ niệm, góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác toàn diện, quan hệ đặc biệt Việt - Lào.
d. Việc chăm lo đời sống đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào theo tôn giáo ở vùng biên giới cũng chưa được Báo cáo của Chính phủ đề cập tới. Đây là vấn đề mà các thế lực thù địch lợi dụng gây mất ổn định. Trong thời gian tới ta cần tạo điều kiện và quan tâm chỉ đạo để không ngừng nâng cao mức sống vật chất và tinh thần cho bà con.
2. Quan hệ với các nước trong khu vực
Để quan hệ giữa Việt Nam và các nước ASEAN hiệu quả hơn, ta nên nghiên cứu các biện pháp thúc đẩy thương mại, đầu tư từ các nước bạn. Một điều đáng lưu ý là AFTA đã có hiệu lực song các doanh nghiệp của ta chưa tận dụng được lợi thế này mang lại. Trong hoạt động đưa lao động của Việt Nam ra nước ngoài, cần chú trọng đến chất lượng lao động như kỹ năng tay nghề và ngoại ngữ, đồng thời tích cực hợp tác với các nước để tranh những hiện tượng, hành vi gây thiệt hại đối với quyền lợi của người lao động.
Ta cần tích cực đối thoại, hợp tác với phi-líp-pin với các nước hữu quan trong việc giải quyết tranh chấp khu vực biển Đông, phối hợp trong việc cảnh báo thiên tai. Đồng thời nước ta cần tích cực, chủ động góp phần vào việc tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ ASEAN, duy trì và nâng cao vị thế của ASEAN trên trường quốc tế.
3. Quan hệ với Hoa kỳ
Trong năm qua, quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ có bước tiến mới trên nhiều lĩnh vực. Chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Bush là một dấu mốc quan trọng trong quan hệ giữa hai nước. Tuy vậy, trong thương mại song phương, ta cũng đã phải tiếp tục đối mặt với những trường hợp kiện tụng, tranh chấp thương mại về hàng nông sản Việt Nam xuất sang thị trường Hoa Kỳ. Bài học đắt giá của những vụ kiện cá tra, cá ba sa, tôm v.v... đòi hỏi Việt Nam phải "bắt nhịp" với "luật chơi" trong thương mại quốc tế. Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu hoá như hiện nay, điều này là vô cùng quan trọng.
Mặc dù Việt Nam và Hoa Kỳ đã hoàn tất đàm phán song phương về việc Việt Nam gia nhập WTO và Đại hội đồng WTO đã kết nạp Việt Nam nhưng Quốc hội Hoa Kỳ còn phải thông qua Quy chế Quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam thì các cam kết WTO của Việt Nam mới có hiệu lực đối với thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ. Tiếc rằng, Quốc hội Hoa Kỳ chưa đạt đủ số phiếu để thông qua PNTR với Việt Nam và điều này không có lợi cho quan hệ thương mại giữa hai nước.
Năm 2006, quan hệ giữa hai Quốc hội Việt Nam và Hoa Kỳ có bước phát triển mới. Quốc hội ta đã cử các đoàn sang thăm Hoa Kỳ, và đón nhiều đoàn của Quốc hội Hoa Kỳ vào Việt Nam, trong đó đáng chú ý có chuyến thăm Chủ tịch Hạ viện D.Hastert. Thông qua kênh ngoại giao nghị viện, ta đã vận động nhiều nghị sĩ Quốc hội Hoa Kỳ ủng hộ ta trong một số vấn đề quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự phát triển tích cực của quan hệ song phương giữa hai nước.
Chúng ta chỉ nhận việc Chính phủ Hoa Kỳ đã đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo (CPC). Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ vẫn còn những thế lực sử dụng những vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ nhân quyền để gây sức ép, can thiệp vào công việc nội bộ của nước ta. Do vậy, một mặt ta cần tiếp tục đối thoại với Hoa Kỳ về vấn đề này, mặt khác có biện pháp đấu tranh khôn khéo và thích hợp, tránh để vấn đề tôn giáo, dân chủ nhân quyền ảnh hưởng tiêu cực tới sự phát triển quan hệ giữa hai nước. Đồng thời, ta cần tiếp tục vận động, đấu tranh về vấn đề nạn nhân chất độc da cam.
4. Quan hệ với Liên minh châu Âu (EU)
Quan hệ với EU có nhiều bước phát triển tích cực. Uỷ ban Đối ngoại hoan nghênh Chính phủ đã tích cực triển khai Đề án tổng thể phát triển hợp tác với Liên minh châu Âu. Chúng ta đánh giá cao việc Liên minh châu Âu tiếp tục ưu tiên dành ODA cho ta, hoàn tất đàm phán về việc Việt Nam gia nhập WTO, mở rộng quan hệ nhiều mặt. Tuy nhiên, đã nảy sinh những vụ tranh chấp thương mại trong thời gian gần đây, như việc EU kiện Việt Nam bán phá giá mặt hàng da giày và áp thuế chống phá giá đối với mặt hàng này gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước. Một mặt, ta triển khai nhiều biện pháp vận động các nước EU chống việc áp thuế đối với những mặt hàng trên, mặt khác, cần phải rút ra những bài học quan trọng trong quá trình hợp tác với những đối tác lớn như EU. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, doanh nghiệp Việt Nam cần được trang bị những hiểu biết về luật pháp quốc tế, những kinh nghiệm trong việc hợp tác với EU cũng như với từng đối tác quan trọng ở châu Âu như Pháp, Đức, Anh, Hà Lan, Thuỵ Sĩ v.v...
Về vấn đề tôn giáo, dân chủ nhân quyền, năm qua, thông qua những cuộc đối thoại nhân quyền giữa hai bên, EU nói chung và các nước thuộc Liên minh này nói riêng đã ghi nhận những tiến bộ của Việt Nam. Tuy nhiên, để tiếp tục giải toả những vướng mắc, ta cần tăng cường trao đổi đoàn, đối thoại trên lĩnh vực này để nâng cao hiểu biết lẫn nhau, tạo cơ sở vững chắc phát triển mối quan hệ với EU.
5. Quan hệ với những đối tác khác
Quan hệ giữa Việt Nam và Liên bang Nga là quan hệ hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện. Chúng ta hoan nghênh kết quả tích cực của chuyến thăm Việt Nam của Tổng thống Putin mới đây. Chúng ta hài lòng thấy rằng, những hoạt động giao lưu, hợp tác văn hoá, giáo dục đào tạo giữa Việt Nam và Nga được thúc đẩy. Tuy nhiên, quan hệ kinh tế thương mại song phương chưa tương xứng với tầm quan hệ chính trị, ước đạt 1 tỷ đô la Mỹ trong năm 2006. Trong thời gian tới, hai bên cần tích cực thúc đẩy hoạt động thương mại đầu tư nhiều hơn. Gây đây xảy ra một số vụ việc đối với người Việt Nam ở Liên bang Nga. Một mặt, Chính phủ cần tiếp tục các nỗ lực bảo vệ công dân, mặt khác hai bên cần cố gắng bảo vệ tình cảm tốt đẹp giữa hai dân tộc.
Quan hệ giữa Việt Nam với Nhật Bản đã được lãnh đạo cấp cao hai nước thoả thuận hướng tới xây dựng quan hệ đối tác chiến lược vì hoà bình và phồn vinh ở châu Á. Thể hiện gầy đây nhất là chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tới Nhật Bản (tháng 10/2006) và chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe (tháng 11/2006). Nhật Bản hiện là nhà tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, do đó bạn rất quan tâm đến chất lượng và hiệu quả sử dụng vốn ODA. Sau những vụ tiêu cực như PMU 18, các nhà tài trợ, trong đó có Nhật Bản rất quan ngại tới tình hình tham nhũng, lãng phí ở Việt Nam. Để tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác tốt đẹp, cũng như nâng cao uy tín của Việt Nam trong quan hệ với Nhật Bản và các nhà tài trợ khác, ta phải kiên quyết đấu tranh chống tiêu cực, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tiến hành kiểm tra, rà soát những dự án đang được triển khai. Đồng thời, ta cần tích cực, chủ động tận dụng "làn sóng đầu tư mới" từ Nhật Bản vào nước ta.
Quan hệ Việt Nam với các nước bạn bè truyền thống ở châu Á, châu Phi, Mỹ La-tinh, Đông Âu tiếp tục được củng cố, tuy nhiên chưa đem lại hiệu quả thiết thực như mong muốn. Với châu Phi, Uỷ ban Đối ngoại đề nghị Chính phủ tích cực thúc đẩy triển khai các thoả thuận đã đạt được, bảo đảm hiệu quả hợp tác. Mối quan hệ song phương của Việt Nam với những nước này cần được đặt trong mối quan hệ giữa các nước không liên kết, hợp tác Nam-Nam, theo đó một mặt cần tăng cường đoàn kết, ủng hộ hợp tác với nhân dân các nước đang phát triển để bảo vệ quyền lợi của mình trước thế mạnh về kinh tế, thương mại, công nghệ cao của các nước công nghiệp phát triển; mặt khác, có chính sách phù hợp để đẩy mạnh sự hợp tác với nhau, cùng hỗ trợ nhau phát triển. Với tinh thần trên, cần tăng cường thu hút nhiều hơn nữa các nhà đầu tư từ các nước Đông Âu; đẩy mạnh hợp tác dầu khí với Angiêri, Vênêzuêla, Ăngôla v.v...
Khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và các nước châu Phi, Mỹ La-tinh, tình hình không ổn định ở một số nước, sự khác biệt về cơ chế chính sách thực sự đang hạn chế tốc độ tăng kim ngạch thương mại hai chiều. Tuy nhiên, với quan hệ chính trị tốt đẹp, khuôn khổ hợp tác đã được xác lập, Chính phủ cần tích cực thúc đẩy quan hệ hợp tác với những nước nói trên lên tầm cao mới, tương xứng với quan hệ chính trị ngoại giao. Trong khuôn khổ đó, cần nỗ lực mở rộng và vận động các bên tham gia hợp tác ba bên giữa nước ta với các nước châu Phi và một đối tác có năng lực tài chính.
III. QUAN HỆ VỚI CÁC TỔ CHỨC QUỐC TẾ VÀ QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Uỷ ban Đối ngoại nhất trí với đánh giá của Chính phủ cho rằng, hoạt động ngoại giao đa phương và công tác ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế thực hiện chủ trương chủ động hội nhập sâu hơn và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới và khu vực đã được triển khai mạnh mẽ. Báo cáo của Chính phủ đã đề cập khá đầy đủ hoạt động đối ngoại của Nhà nước, trong đó có Quốc hội. Báo cáo về hoạt động đối ngoại của Quốc hội đã được gửi đến các vị đại biểu Quốc hội. Ở đây, chúng tôi đi sâu phân tích một số điểm sau:
Trong năm qua, hai sự kiện có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong hoạt động đối ngoại đa phương của Việt Nam là việc ta hoàn tất các thủ tục gia nhập WTO sau hơn 11 năm đàm phán và việc ta tỏ chức thành công các hội nghị APEC. Bên cạnh đó, Uỷ ban Đối ngoại nhận thấy cần đánh giá đầy đủ hơn vai trò của các tổ chức quốc tế, đồng thời nêu lên được những đóng góp tích cực của Việt Nam tại các tổ chức này.
1. Quan hệ với các tổ chức quốc tế
a. Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC)
Sau gần hai thập kỷ tồn tại và phát triển, PAEC đang đứng trước những cơ hội phát triển mới, đồng thời cũng phải đối phó với những thách thức mới do những thay đổi nhanh chóng của môi trường quốc tế và khu vực, cũng như do những chuyển hoá nội bộ của APEC.
Cách đây ít ngày, chúng ta đã tổ chức thành công Hội nghị cấp cao APEC-14. Uỷ ban Đối ngoại đã đề nghị Chính phủ gửi Báo cáo kết quả Hội nghị đến các vị đại biểu Quốc hội. Chúng tôi nhất trí về nội dung này trong Báo cáo của Chính phủ và đề nghị Quốc hội biểu dương nỗ lực của Chính phủ, các bộ, ngành và các cơ quan, địa phương liên quan đã tổ chức tốt sự kiện trọng đại này. Đồng thời kiến nghị Chính phủ thông tin cho các đại biểu Quốc hội về những nội dung được thoả thuận tại các hội nghị của APEC tại Việt Nam trong năm na và kế hoạch cụ thể thực hiện các cam kết này.
b. Liên hợp quốc
Báo cáo của Chính phủ không đề cập nhiều đến Liên hợp quốc và hoạt động của ta tại Tổ chức này. Tuy nhiên, Uỷ ban Đối ngoại nhận thấy đây là vấn đề quan trọng cần được quan tâm sâu sắc hơn, cụ thể ở những điểm sau:
Liên hợp quốc đang tiếp tục đứng trước những thách thức to lớn đối với vai trò và khả năng giải quyết những vấn đề toàn cầu quan trọng. Những thách thức chủ yếu đó là: xung đột, bạo lực, chiến tranh, phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt, đói nghèo, dịch bệnh, chủ nghĩa khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia và ô nhiễm môi trường v.v... Việc tiến hành và cải tổ và cơ cấu lại của Liên hợp quốc để đối phó hiệu quả với những thách thức này cũng chính là một trong những nhiệm vụ khó khăn đối với Liên hợp quốc trong thời gian tới.
Thời gian qua, Việt Nam tiếp tục tham gia tích cực vào các hoạt động của Liên hợp quốc, trong đó có việc vận động các nước ủng hộ ta vào vị trí uỷ viên không thường trực của Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2008 - 2009. Uỷ ban Đối ngoại đề nghị Chính phủ làm rõ thêm những lợi ích, những nguyên tắc, phương châm của ta khi tham gia Hội đồng Bảo an và những bước chuẩn bị của ta nhằm bảo đảm thực hiện thành công trọng trách này.
c. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN)
Năm 2007, ASEAN sẽ kỷ niệm 40 năm ngày ra đời của mình. ASEAN được coi là cơ chế hợp tác khu vực quan trọng, là mô hình liên kết khu vực tương đối thành công. Sau hơn 10 năm gia nhập, sự tham gia và những đóng góp của ta cho Hiệp họi ngày càng được các nước đánh giá cao. Tuy nhiên, hoạt động của Hiệp hội cũng như của AIPO - cơ chế liên nghị viện của ASEAN trên thực tế chưa đạt hiệu quả cao. Sự phối hợp giữa hai cơ chế này còn lỏng lẻo, cả ở cấp độ trong từng quốc gia.
Ngoài ra, Uỷ ban Đối ngoại cũng đề nghị Chính phủ phân tích sâu hơn về quá trình xây dựng Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột là an ninh - chính trị, kinh tế và văn hoá - xã hội. Từ đó có phương hướng và biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của những đóng góp của Việt Nam đối với Hiệp hội.
d. Các diễn đàn khu vực và quốc tế khác
Về phần này, Uỷ ban Đối ngoại cho rằng những nội dung và mức độ được nêu trong Báo cáo của Chính phủ là hợp lý.
2. Hội nhập kinh tế quốc tế và việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO)
Về nội dung hội nhập kinh tế quốc tế, Uỷ ban Đối ngoại cũng nhất trí với phần trình bày trong Báo cáo của Chính phủ.
Đối với việc Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Uỷ ban Đối ngoại có Báo cáo thẩm tra Nghị định thư gia nhập Hiệp định Thành lập Tổ chức Thương mại thế giới của Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vì vậy xin không trình bày trong báo cáo này. Chúng tôi chỉ xin nhấn mạnh rằng, đây là một sự kiện lớn; việc triển khai Chương trình hành động nhằm thực hiện các cam kết của Việt Nam trong WTO cần được coi là một trọng tâm của hoạt động đối ngoại Nhà nước ta trong thời gian tới.
IV. VỀ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI TRÊN MỘT SỐ LĨNH VỰC QUAN TRỌNG KHÁC
Trên cơ sở tiếp thu ý kiến trong Báo cáo thẩm tra năm 2005 của Uỷ ban Đối ngoại, Báo cáo của Chính phủ năm nay đã đề cập khá đầy đủ đến các linh vực: đối ngoại quốc phòng - an ninh, đối ngoại nhân dân, công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài, công tác bảo hộ công dân, pháp nhân Việt Nam tại nước ngoài, công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại... Uỷ ban Đối ngoại đánh giá cao và cơ bản nhất trí với những nội dung này trong Báo cáo của Chính phủ.
Trong quá trình xây dựng Báo cáo thẩm tra này, Uỷ ban Đối ngoại đã làm việc với các đồng chí lãnh đạo Bộ quốc phòng, Công an, Tư pháp, Toà án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao, Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đài phát thanh và Đài truyền hình Việt Nam v.v... và nhận được nhiều ý kiến đóng góp. Trên cơ sở đó, chúng tôi xin bổ sung và phân tích rõ hơn một số nội dung dưới đây:
1. Hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh
Uỷ ban Đối ngoại nhất trí với những nội dung nêu trong Báo cáo của Chính phủ đồng thời nhận thấy, công tác đối ngoại trong lĩnh vực quốc phòng trong năm qua được triển khai đúng hướng, chủ động, nhạy bén, xác định đối tác, nội dung hợp tác phù hợp với đường lối đối ngoại và tình hình thực tế, góp phần củng cố quốc phòng - an ninh, tạo thế cho ngoại giao Đảng và Nhà nước, là nhân tố quan trọng đóng góp vào thành tựu của công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước.
Phương châm kết hợp chặt chẽ giữa củng cố quốc phòng - an ninh với phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp quốc phòng với an ninh và đối ngoại ngày càng được quán triệt sâu sắc và được triển khai trên các mặt hoạt động đối ngoại, góp phần duy trì hoà bình, ổn định, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực an ninh đã có nhiều bước chuyển biến về chất trong quan hệ với các nước, đi vào chiều sâu, có trọng tâm, trọng điểm, đặc biệt là trong công tác phòng chống các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, tội phạm quốc tế, chống khủng bố quốc tế, buôn lậu ma tuý, buôn bán phụ nữ và trẻ em, đưa người di cư bất hợp pháp, tội phạm kinh tế, gian lận thương mại, tội phạm công nghệ cao, hợp tác trong lĩnh vực tư pháp hình sự... Quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực an ninh không chỉ được tăng cường với các nước láng giềng, khu vực, bạn bè truyền thống mà còn được mở rộng tới các nước lớn và các tổ chức quốc tế.
Kết quả hợp tác đã góp phần xây dựng và củng cố phòng tuyến bảo vệ an ninh quốc gia từ xa, vô hiệu hoá các hoạt động chống phá nước ta, tăng cường năng lực thực thi pháp luật, góp phần giải quyết tốt những vấn đề an ninh quốc tế.
2. Hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực tư pháp
Chúng tôi thấy vấn đề này chưa được nêu trong Báo cáo của Chính phủ và trong các Báo cáo thẩm ta của Uỷ ban Đối ngoại những năm qua cũng chưa có.
Chúng tôi nhận thấy đây cũng là vấn đề cần được đề cập một cách hợp lý để thông tin tới các vị đại biểu quốc hội.
Trong năm qua, hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực tư pháp (Toà án Nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp...) đã được mở rộng. Đó là hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật và tư pháp, thông qua các chương trình, dự án cụ tể, các hoạt động hợp tác song phương và da phương. Hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực tư pháp đã góp phần quan trọng vào quá trình hình thành khung pháp luật của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, các văn bản pháp luật phục vụ cho quá trình cải cách tư pháp ở nước ta.
Bên cạnh những thành tựu trên, hoạt động đối ngoại trong lĩnh vực tư pháp bộc lộ một số tồn tại là: còn thiếu tính chủ động và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tư pháp; nội dung hợp tác còn chưa cân đối, trong đó tập trung phần nhiều vào công tác xây dựng thể chế; tiến độ thực hiện các chương trình, dự án còn chậm. Đội ngũ cán bộ tư pháp còn chưa đáp ứng được những yêu cầu của công cuộc hội nhập, trình độ ngoại ngữ, khả năng hiểu biết về luật quốc tế, kỹ năng hành nghề còn yếu.
3. Công tác đối ngoại nhân dân
Uỷ ban Đối ngoại nhất trí với những nội dung nêu trong Báo cáo của Chính phủ và xin nhấn mạnh một số điểm sau:
Năm 2006, lần đầu tiên, các hoạt động đối ngoại nhân dân của ta do Liên hiệp các Tổ chức hữu nghị Việt Nam làm nòng cốt đã xác lập được các cơ chế lâu dài tăng cường và phát huy quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước láng giềng như: Kế hoạch hợp tác nhân dân Việt - Trung, Chương trình hành động nhân dân Việt - Lào, Tuyên bố về quan hệ hữu nghị hợp tác Việt Nam - Campuchia và vai trò, trách nhiệm của nhân dân hai nước.
Việc tranh thủ các nguồn lực bên ngoài cho phát triển và xây dựng đất nước đạt kết quả cao. Các hoạt động vận động cho Việt Nam gia nhập WTO, vận động Hoa Kỳ thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam cũng như các hoạt động quần chúng vì hoà bình, vì phát triển bền vững, chào mừng Hội nghị cấp cao APEC-14 và chào mừng Việt Nam vào WTO đã tạo ra sự khởi sắc mới cho công tác đối ngoại nhân dân.
Tuy nhiên, Uỷ ban Đối ngoại cho rằng, trước tình hình mới, công tác đối ngoại nhân dân cũng cần được nhanh chóng tổ chức lại và đổi mới mạnh mẽ. Đề nghị các cơ quan đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước, các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài chủ động gắn kết với hoạt động đối ngoại nhân dân, đồng thời tạo điều kiện về cơ chế, cán bộ, tổ chức và điều kiện đảm bảo, hất là về kinh phí, cho công tác đối ngoại nhân dân.
4. Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài
Uỷ ban Đối ngoại đối ngoại nhất trí với những nội dung nêu trong Báo cáo của Chính phủ, đặc biệt là công tác bảo hộ công dân, pháp nhân Việt Nam tại nước ngoài. Trong năm qua, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài có những kết quả tích cực và được nhân dân đồng tình như việc các cơ quan chức năng của ta tổ chức hồi hương an toàn cho công dân ta đang lao động tại Li-băng, bày tỏ thái độ đối ới vụ xét xử các tội phạm giết hại sinh viên Việt Nam ở Xanh Pê-téc-bua; hay việc ta đấu tranh để phía Vương quốc Bỉ trả tự do cho doanh nhân của ta...
Nhà nước ta đã có chính sách thu hút sự đóng góp của kiều bào đối với công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, tuy vậy, cần quan tâm đẩy mạnh hơn nữa công tác này, nhất là có chính sách thu hút, tạo điều kiện thuận lợi để tầng lớp trí thức có những đóng góp hiệu quả hơn. Tiếp tục thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; có biện pháp tích cực, cụ thể hơn để bảo vệ quyền lợi chính đáng, cuộc sống bình yên của kiều bào, đồng thời cần giáo dục, tuyên truyền người Việt Nam ở nước ngoài tôn trọng pháp luật nước sở tại. Đây là hai vấn đề nổi lên trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài hiện nay, cần được quan tâm bằng những chủ trương, biện pháp cụ thể, thiết thực.
5. Công tác thông tin đối ngoại
Uỷ ban Đối ngoại cho rằng đây là nội dung cần được chú trọng nhiều hơn trong Báo cáo của Chính phủ và xin nêu bổ sung một số điểm sau:
Công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại trong thời gian qua có những cố gắng đổi mới về nội dung và hình thức, đạt kết quả tích cực. Việc Chính phủ cử một đồng chí Phó Thủ tướng trực tiếp chỉ đạo công việc này với sự kết hợp rất chặt chẽ với Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương, các cơ quan thông tin đại chúng, đã tạo ra bước chuyển biến rõ rệt.
Tuy nhiên, đây vẫn là công tác còn nhiều bất cập. Trong thời gian tới cần đặc biệt quan tâm đầu tư về đội ngũ và cơ sở vật chất cho các cơ quan chuyên trách về tuyên truyền đối ngoại, trong đó chú ý sớm thành lập website thông tin đối ngoại trực thuộc Ban Chỉ đạo Thông tin đối ngoại Trung ương. Cần chú trọng hơn nữa việc quảng bá hình ảnh Việt Nam qua hoạt động du lịch; thông tin đậm nét những thành tựu đổi mới của đất nước, những tấm gương lao động học tập sáng tạo, hiệu quả; khắc phục hiện tượng một số tờ báo chỉ khai thác thông tin tiêu cực, phản ánh không đúng bản chất tích cực của đất nước và dân tộc ta trong tiến trình đổi mới và hội nhập hiện nay, do đó đã gây sự phân tâm, lo lắng cho bà con người Việt ở nước ngoài đối với đất nước.
Ngoài ra công tác thông tin cho người nước ngoài sống tại Việt Nam cũng cần được cải tiến nhằm đáp ứng tốt nhu cầu tìm hiểu của họ về các chủ trương chính sách đổi mới, hội nhập của ta. Đồng thời cần chủ động đấu tranh phản bác lại những thông tin sai trái, các âm mưu, luận điệu chống phá ta của các thế lực thù địch một cách hiệu quả.
6. Công tác đối ngoại của các địa phương
Báo cáo của Chính phủ chỉ đề cập đến công tác đối ngoại của các địa phương như một trong những hạn chế cần được khắc phục. Trên thực tế, qua hoạt động giám sát của Uỷ ban Đối ngoại tại các tỉnh biên giới và tại thành phố Hồ Chí Minh, thì công tác này trong năm qua có nhiều khởi sắc, đóng góp thiết thực vào hoạt động đối ngoại chung của Đảng và Nhà nước ta. Uỷ ban Đối ngoại đánh giá cao sự tham gia ngày càng tích cực và hiệu quả vào hoạt động đối ngoại chung của Đảng và Nhà nước ta. Uỷ ban Đối ngoại đánh giá cao sự tham gia ngày càng tích cực và hiệu quả vào hoạt động đối ngoại của các địa phương, đặc biệt là các tỉnh có chung biên giới với Lào, Campuchia, qua đó góp phần không nhỏ đẩy mạnh hợp tác kinh tế, xây dựng đường biên giới hoà bình, hữu nghị, ổn định và phát triển. Tuy nhiên, Uỷ ban Đối ngoại đồng tình với Báo cáo của Chính phủ cho rằng công tác này "cần tiếp tục được đổi mới để đạt hiệu quả cao hơn".
V. VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI
1. Công tác nghiên cứu chiến lược đối ngoại
Báo cáo của Chính phủ đề cập đến công tác dự báo, tham mưu về đối ngoại như một hạn chế và đã đề ra một số biện pháp khắc phục. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy Báo cáo chưa phân tích rõ nhà nước của hạn chế này và giải pháp đề ra cũng chưa thực sự cụ thể, do đó rất khó tạo được chuyển biến mạnh mẽ trong thời gian tới.
Uỷ ban Đối ngoại nhận thấy rằng hiện nay có nhiều cơ quan nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực đối ngoại nhưng còn phân tán, chưa có sự chỉ đạo sát sao và sự phối hợp chặt chẽ. Do đó, cần nghiên cứu sắp xếp tổ chức bộ máy và có sự quan tâm chỉ đạo để có sản phẩm nghiên cứu với chất lượng cao.
Một số thành viên Uỷ ban Đối ngoại đề nghị nên thành lập Hội đồng nghiên cứu chiến lược đối ngoại, nhằm bảo đảm sự phối hợp tốt và phát huy khả năng của những cơ quan này.
2. Hoạt động của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài
Nội dung này không được nêu trong Báo cáo của Chính phủ. Chúng tôi đánh giá đây là những cơ quan có vai trò quan trọng và trên thực tế đã có nhiều thành tích trong việc góp phần triển khai chính sách đối ngoại và nâng cao hình ảnh của Việt Nam trên trường quốc tế. Bên cạnh đó, những cơ quan này cũng còn những thiếu sót do nguyên nhân khách quan là cơ sở vật chất và kinh phí hoạt động còn hạn chế và nguyên nhân chủ quan là việc lựa chọn, sắp xếp cán bộ và việc quản lý còn chưa tốt, để xảy ra một số vụ việc mà báo chí đã nêu.
Uỷ ban Đối ngoại đề nghị Chính phủ nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện và động viên, khuyến khích đội ngũ cán bộ, nhân viên làm việc tại các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài, đồng thời tiếp tục quan tâm về kinh phí hoạt động và cơ sở vật chất cho cơ quan đại diện.
Uỷ ban Đối ngoại nhận thấy, Pháp lệnh về cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài qua thời gian thực hiện đã bộc lộ một số bất cập và cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp tình hình mới.
3. Quản lý hoạt động của cá nhân, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam và công tác xuất nhập cảnh
Đây cũng là nội dung không được nêu trong Báo cáo của Chính phủ. Thời gian qua, Uỷ ban Đối ngoại đã tiến hành khảo sát ở một số địa phương và thấy rằng, hệ thống chính sách, pháp luật của ta đã tạo môi trường pháp lý rõ ràng, phù hợp thực tế theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân, tổ chức nước ngoài đến Việt Nam đầu tư, làm việc và sinh sống. Người nước ngoài ở Việt Nam tỏ ra đồng tình và mong muốn ta sửa đổi, bổ sung thêm một số chính sách, pháp luật cho hoàn chỉnh hơn.
Trong thời gian tới, chúng ta cần có chính sách và biện pháp quản lý tốt hơn các tổ chức phi chính phủ (NGO) hoạt động ở nước ta nhằm vừa giữ quan hệ tốt với họ, vừa bảo đảm an ninh quốc gia. Ngoài ra, số người nước ngoài phạm tội ở nước ta đang có chiều hướng tăng lên với tính chất ngày càng phức tạp, nên cần được quản lý tốt hơn.
4. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và chính sách đối với cán bộ hoạt động đối ngoại
Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Đối ngoại năm 2005 đã đề cập tương đối cụ thể nội dung này. Trên thực tế, công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hoạt động đối ngoại trong năm qua đã được quan tâm hơn. Chế độ, chính sách đối với đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ làm việc tại các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài đã được cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, Uỷ ban Đối ngoại cho rằng, cần có kế hoạch dài hạn và giải pháp mạnh mẽ, tích cực hơn trong việc đào tạo, bồi dưỡng để có đội ngũ cán bộ ngang tầm với yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế của ta.
5. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật trong lĩnh vực đối ngoại
Uỷ ban Đối ngoại cho rằng đây là nội dung có ý nghĩa quan trọng lâu dài đối với việc triển khai chính sách đối ngoại của Nhà nước ta. Bối cảnh tình hình quốc tế đang có sự vận động rất nhanh chóng và năng động đòi hỏi chúng ta phải xây dựng những cơ chế phù hợp cho công tác ngoại giao. Những quy định mang tính quy phạm pháp luật về cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài, về lãnh sự, về quản lý cá nhân, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam v.v... bộc lộ những khiếm khuyết nhất định. Trước bối cảnh đó, Uỷ ban Đối ngoại cho rằng, cần sớm ban hành pháp lệnh ký kết và thực hiện thoả thuận quốc tế, sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh xuất nhập cảnh; Pháp lệnh lãnh sự và sớm nâng Pháp lệnh về cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài thành Luật về cơ quan đại diện nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước ngoài.
6. Phối hợp công tác trong hoạt động đối ngoại
Uỷ ban Đối ngoại nhất trí với nhận định trong Báo cáo của Chính phủ là sự phối hợp trong công tác này đã được quan tâm hơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi mới của quá trình hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới luôn diễn biến hết sức năng động và việc Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới và đang vận động để trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009, thời gian tới, nhiều vấn đề mới về chính trị, kinh tế, thương mại quốc tế, về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, về bảo hộ công dân Việt Nam làm ăn, sinh sống tại nước ngoài v.v... sẽ nảy sinh đòi hỏi chúng ta phải xử lý linh hoạt, kịp thời. Do đó, tiếp tục tăng cường thống nhất quản lý và chủ động hơn nữa trong việc phối hợp hoạt động đối ngoại vẫn đòi hỏi sự quan tâm và đầu tư nhiều hơn nữa.
Trên đây là Báo cáo thẩm tra của Uỷ ban Đối ngoại đối với Báo cáo của Chính phủ về tình hình thế giới và công tác đối ngoại của Nhà nước ta năm 2006, Uỷ ban Đối ngoại kính trình Quốc hội.
Nơi nhận:
- Các vị Đại biểu Quốc hội
- Văn phòng TW, CTN, CP, QH
- Ban Đối ngoại TW, Ban TT-VHTW
- Các Bộ: NG, QP, CA, TP, VHTT
- Toà án NDTC, Viện KSNDTC
- Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam
- Lưu HC, ĐN
|
TM. ỦY BAN ĐỐI NGOẠI
Chủ nhiệm
Vũ Mão
|