Lịch sử của Văn phòng Quốc hội gắn liền với lịch sử ra đời và phát triển của Quốc hội Việt Nam. Ngày 2-3-1946, kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa I đã diễn ra tại Hà Nội, Quốc hội đã thành lập Chính phủ Liên hiệp kháng chiến và bầu ra Ban Thường trực để thay mặt Quốc hội giải quyết một số công việc thuộc quyền hạn của Quốc hội trong điều kiện Quốc hội không thể họp. Lúc này, các công việc phục vụ hoạt động của Ban Thường trực Quốc hội do một số cán bộ giúp việc đảm nhận.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Ban Thường trực Quốc hội luôn sát cánh cùng Chính phủ, thực hiện nhiệm vụ do Quốc hội giao như bàn bạc, tham gia ý kiến về các chủ trương, chính sách lớn và giám sát, phê bình Chính phủ trong các công việc điều hành kháng chiến; cùng Chính phủ quyết định việc ký Hiệp định Giơnevơ ngày 21-7-1954… Theo đà thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tổ chức của Văn phòng Ban Thường trực Quốc hội từng bước được củng cố và phát triển. Ngày 19-3-1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 38/SL bổ nhiệm bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng giữ chức Chánh Văn phòng Ban Thường trực Quốc hội. Từ đó, bộ máy Văn phòng được hình thành rõ nét, số lượng cán bộ phục vụ cũng được tăng lên để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Văn phòng đã tổ chức thực hiện nhiều công việc như giữ mối liên hệ thường xuyên với các Ủy viên Ban Thường trực Quốc hội, với các đại biểu Quốc hội và duy trì quan hệ mật thiết với nhân dân, với chính quyền các cấp ở địa phương; phục vụ các phái đoàn Quốc hội đi động viên khích lệ các đơn vị quân đội lập chiến công và úy lạo đồng bào vùng mới giải phóng; đề nghị Hội đồng Chính phủ xét công trạng để khen thưởng các đơn vị, chiến sĩ và cán bộ lập được chiến công xuất sắc; tổ chức, phục vụ các Đoàn đại biểu Quốc hội đi thăm một số nước xã hội chủ nghĩa anh em để tăng cường tình đoàn kết, hữu nghị…
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ khôi phục và phát triển kinh tế làm chỗ dựa vững chắc cho sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà. Ngày 31-12-1959, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp năm 1959, theo đó, Uỷ ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội. Ngày 16-1-1962, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 87NQ/TVQH quy định cơ quan giúp việc cho Quốc hội là Văn phòng Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng theo Nghị quyết số 87NQ/TVQH đã dẫn đến một số thay đổi trong tổ chức bộ máy của Văn phòng; số lượng cán bộ, nhân viên của Văn phòng cũng tăng lên nhiều so với trước. Văn phòng đã góp phần quan trọng vào sự nghiệp tiếp tục xây dựng và củng cố Nhà nước dân chủ nhân dân ngày càng vững mạnh, góp phần giúp Quốc hội thực thi nhiệm vụ, quyền hạn của mình nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, làm hậu phương lớn cho cuộc đấu tranh thống nhất đất nước.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (ngày 30-4-1975), nhân dân cả nước đã tiến hành bầu cử đại biểu Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên đất nước độc lập, thống nhất và cùng đi lên chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp 1980 được Quốc hội khóa VI ban hành, quy định Hội đồng Nhà nước là cơ quan thường trực của Quốc hội và là Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tháng 7-1981, Văn phòng Uỷ ban thường vụ Quốc hội được đổi tên thành Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước. Nghị quyết số 01NQ/HĐNN7 ngày 6-7-1981 của Hội đồng Nhà nước xác định Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước với chức năng là cơ quan giúp việc cho Quốc hội và Hội đồng Nhà nước, có trách nhiệm phục vụ mọi hoạt động của Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch, các Phó Chủ tịch Quốc hội, các Hội đồng và Ủy ban của Quốc hội.
Từ năm 1986, nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Để tạo cơ sở pháp lý cho sự nghiệp đổi mới, tại kỳ họp thứ 11 (háng 4-1992), Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp mới 1992. Uỷ ban thường vụ Quốc hội được thành lập lại là cơ quan thường trực của Quốc hội. Theo Nghị quyết số 01NQ/UBTVQH9, ngày 26-9-1992 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Văn phòng Quốc hội và Hội đồng Nhà nước được đổi tên thành Văn phòng Quốc hội và tên gọi đó được giữ cho đến ngày nay. Tiếp đó, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 02NQ/UBTVQH9 ngày 17-10-1992, xác định Văn phòng Quốc hội là cơ quan giúp việc của Quốc hội, có trách nhiệm nghiên cứu, tham mưu, tổng hợp và tổ chức phục vụ mọi hoạt động của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội, Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Cùng với việc thay đổi tên gọi, nhiệm vụ của Văn phòng Quốc hội được sửa đổi, bổ sung đầy đủ và cụ thể hơn. Cơ cấu tổ chức của Văn phòng cũng được kiện toàn cơ bản như thành lập đầy đủ các Vụ chuyên môn giúp việc Hội đồng Dân tộc và 7 Ủy ban của Quốc hội; thành lập Vụ Công tác phía Nam…
Trong thời gian nhiệm kỳ phục vụ Quốc hội khóa IX và khóa X (1992-2002), Văn phòng Quốc hội đã góp phần quan trọng vào thành tựu đổi mới của Quốc hội cả trong lĩnh vực lập pháp, giám sát và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Về công tác lập pháp, Văn phòng đã tham mưu, phục vụ Quốc hội xây dựng và ban hành Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh và triển khai có hiệu quả việc thực hiện chương trình này. Văn phòng đã phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả với các cơ quan soạn thảo, cơ quan chủ trì thẩm tra, các bộ, ngành, tổ chức hữu quan trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh. Các văn bản luật, pháp lệnh được Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành đã góp phần xây dựng hệ thống pháp luật một cách đồng bộ, kịp thời thể chế hóa chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng, phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Kết quả là số lượng các văn bản luật, pháp lệnh đã tăng lên; phạm vi điều chỉnh được mở rộng, từ việc tổ chức bộ máy Nhà nước đến các lĩnh vực kinh tế, ngân sách, đối ngoại, quốc phòng - an ninh, các quyền cơ bản của công dân, các vấn đề về văn hóa, giáo dục, xã hội, khoa học, công nghệ và Môi trường…
Trong việc phục vụ hoạt động giám sát của Quốc hội, Văn phòng đã tham mưu giúp Quốc hội xây dựng chương trình giám sát hàng năm, triển khai thực hiện giám sát tại kỳ họp Quốc hội; phục vụ các Đoàn giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, của Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội. Văn phòng còn giúp Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội trong việc tổng hợp, rút kinh nghiệm về công tác này. Phạm vi phục vụ công tác giám sát cũng rất đa dạng, phong phú, tập trung vào những vấn đề nổi cộm trong lĩnh vực kinh tế, ngân sách, văn hóa, xã hội, thi hành pháp luật đến tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước ở Trung ương và hoạt động đối ngoại…
Bên cạnh đó, Văn phòng đã phối hợp với các cơ quan thông tấn, báo chí để thông tin, tuyên truyền về hoạt động của Quốc hội. Từ năm 1994 đến nay, Văn phòng đã tổ chức phát thanh, truyền hình trực tiếp các phiên chất vấn tại kỳ họp và gần đây là cả các phiên họp thảo luận về các dự án luật, giám sát các chuyên đề… được đông đảo cử tri cả nước quan tâm, theo dõi và hoan nghênh.
Trong việc Quốc hội quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, Văn phòng đã tổ chức phục vụ Quốc hội bầu, phê chuẩn nhân sự cấp cao của Nhà nước; quyết định việc xem xét, thông qua nhiệm vụ, kế hoạch 5 năm và hàng năm; dự toán ngân sách; phân bổ thu chi và tổng quyết toán ngân sách nhà nước; các vấn đề về chính sách tài chính, tiền tệ, xã hội, đối ngoại… Văn phòng còn tổ chức nghiên cứu, chuẩn bị các văn bản thuộc phạm vi trách nhiệm của mình; tổng hợp ý kiến đóng góp của đại biểu Quốc hội, của cử tri và tham gia soạn thảo, chỉnh lý các văn bản trình Quốc hội xem xét, quyết định.
Nhiệm kỳ Quốc hội khóa XI (2002-2007) diễn ra trong bối cảnh công cuộc đổi mới được triển khai một cách toàn diện, mạnh mẽ nhằm đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Để giúp Quốc hội thực hiện đầy đủ vai trò là cơ quan đại diện dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 417/2003/NQ-UBTVQH11, ngày 1-10-2003 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Văn phòng Quốc hội. Hiện tại, Văn phòng có 21 đơn vị cấp vụ, 2 đơn vị cấp Phòng, gồm các vụ trực tiếp giúp việc Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Ban của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các vụ phục vụ chung. Hoạt động của Văn phòng đã thực sự có bước phát triển vượt bậc, không chỉ tăng về số lượng công việc mà chủ yếu là công tác tham mưu, phục vụ đã đi vào nền nếp, đạt chất lượng và hiệu quả cao. Văn phòng đã bám sát chức năng, nhiệm vụ được giao để tổ chức triển khai và thực hiện với tinh thần tận tụy, nghiêm túc và sáng tạo. Các cán bộ, công chức Văn phòng đã làm việc tích cực vào cả ngày nghỉ để đáp ứng yêu cầu công việc phục vụ hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội.
Trải qua 60 năm trưởng thành và phát triển, mặc dù cơ cấu tổ chức của Văn phòng có những thay đổi với các tên gọi khác nhau nhưng với truyền thống đoàn kết, sáng tạo, tinh thần vượt khó, tận tâm với công việc, đội ngũ cán bộ, công chức của Văn phòng Quốc hội đã nỗ lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chính trị của mình, đóng góp vào sự nghiệp chung của đất nước và hoạt động của Quốc hội. Nhiều đơn vị và cá nhân đạt thành tích trong công tác, gắn bó với Văn phòng đã được khen thưởng. Theo Nghị quyết số 751/2005NQ-UBTVQH11, ngày 2-3-2005 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, ngày 2 tháng 3 hàng năm là Ngày Truyền thống của Văn phòng Quốc hội. Nhân dịp kỷ niệm 60 năm Ngày Truyền thống (2-3-1946 - 2-3-2006), Văn phòng Quốc hội đã vinh dự được tặng thưởng Huân chương Sao vàng - Huân chương cao quý nhất của Nhà nước để ghi nhận công lao, đóng góp của các thế hệ cán bộ, công chức Văn phòng. Nhìn lại bước đường hơn 60 năm qua của Văn phòng Quốc hội, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện quyết định sự thành công trong xây dựng tổ chức và hoạt động của Văn phòng Quốc hội.
Từ một số đảng viên sinh hoạt trong tổ Đảng, đến nay, Đảng bộ Văn phòng Quốc hội đã không ngừng lớn mạnh với 26 Chi bộ và trên 400 đảng viên, trong đó có các đồng chí là lãnh đạo Quốc hội, thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lãnh đạo Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các đại biểu Quốc hội. Đây là thuận lợi cơ bản bảo đảm thành công trong hoạt động của Văn phòng Quốc hội. Trên thực tế, Đảng bộ cơ quan Văn phòng đã và đang phát huy vai trò hạt nhân lãnh đạo trong công tác tham mưu, phục vụ Quốc hội, nhất là góp phần bảo đảm thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật. Công tác xây dựng cơ quan phát triển về mọi mặt là nhờ có sự phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy và lãnh đạo chính quyền nhằm bảo đảm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, đồng thời, đề cao vai trò của lãnh đạo Văn phòng, đơn vị, tạo nên sự đồng thuận và dân chủ trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao.
Bảo đảm nguyên tắc lãnh đạo của Đảng trong hoạt động của Văn phòng đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên trong Văn phòng phải không ngừng phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất chính trị của mình, nâng cao trình độ, rèn luyện kỹ năng để nắm vững và vận dụng sáng tạo quan điểm, chính sách của Đảng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ tham mưu, phục vụ Quốc hội trong giai đoạn phát triển mới của đất nước
Thứ hai, thực hiện tốt chức năng tham mưu, giúp việc Quốc hội là nhiệm vụ chính trị trọng tâm của Văn phòng Quốc hội.
Hơn 60 năm qua, tuy với những tên gọi khác nhau nhưng điều cơ bản nhất có tính xuyên suốt chính là Văn phòng luôn được xác định là cơ quan tham mưu, giúp việc Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội. Điều này đã được quy định trong các đạo luật về tổ chức Quốc hội và trên cơ sở đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Văn phòng ngày càng được cụ thể hóa; cơ cấu tổ chức của Văn phòng ngày càng được kiện toàn, phát triển. Hoạt động của Văn phòng Quốc hội gắn liền với hoạt động của Quốc hội. Từ thực tiễn công tác tham mưu, giúp việc Quốc hội cho thấy:
Một là, phải xây dựng và tổ chức thực hiện có kết quả nội dung làm việc một cách khoa học, cụ thể trên cơ sở bám sát chương trình, kế hoạch công tác của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Hoạt động của Quốc hội ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu, đòi hỏi Văn phòng phải luôn không ngừng cải tiến, đổi mới lề lối làm việc, kịp thời lựa chọn trúng và đúng vấn đề để tham mưu cho lãnh đạo Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội.
Hai là, công tác tham mưu, phục vụ Quốc hội đòi hỏi Văn phòng không những phải bảo đảm nội dung, chất lượng của công việc mà còn phải chú trọng tới tinh thần, thái độ phục vụ và cả công tác vật chất, hậu cần. Chất lượng công tác tham mưu, phục vụ của Văn phòng góp phần vào việc bảo đảm chất lượng thảo luận và ra quyết định của Quốc hội. Từ đó, hoạt động của Văn phòng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, kịp thời để phục vụ các kỳ họp Quốc hội, phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội, hoạt động của các cơ quan và đại biểu Quốc hội. Điều này đòi hỏi cán bộ, nhân viên Văn phòng phải phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo, đề cao trách nhiệm cá nhân, hướng hoạt động của Văn phòng đến tính hiệu quả, thực hành tiết kiệm và chống lãng phí.
Ba là, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là điều kiện quan trọng để bảo đảm công tác tham mưu, giúp việc đạt hiệu quả cao. Các mặt công tác của Văn phòng phải được thảo luận, bàn bạc tập thể trong lãnh đạo Văn phòng và sự triển khai tích cực, chủ động của mỗi đơn vị được phân công thực hiện. Đồng thời, không ngừng tăng cường sự phối hợp giữa các bộ phận có liên quan nhằm bảo đảm phát huy sức mạnh tổng hợp của tập thể, tạo điều kiện cho mỗi đơn vị và cả tập thể Văn phòng hoàn thành có kết quả chức năng, nhiệm vụ được giao.
Thứ ba, không ngừng chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng và năng lực công tác là điều kiện bảo đảm cho Văn phòng Quốc hội hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Trong thời gian qua, nhất là trong các nhiệm kỳ Quốc hội gần đây, đội ngũ cán bộ của Văn phòng Quốc hội không ngừng được tăng cường, củng cố, gồm những người có phẩm chất chính trị, đạo đức, được tuyển chọn và đào tạo cơ bản, có trình độ và năng lực làm việc. Đây là điều kiện bảo đảm cho Văn phòng hoàn thành tốt nhiệm vụ phục vụ Quốc hội. Đồng thời, việc tham gia trực tiếp các hoạt động của Quốc hội chính là trường học lớn cho sự trưởng thành về mọi mặt của các cán bộ Văn phòng.
Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước, xây dựng đội ngũ cán bộ “vừa hồng, vừa chuyên”, cơ quan trong sạch, vững mạnh, đoàn kết là điều kiện quyết định để làm tốt chức năng, nhiệm vụ của Văn phòng. Cùng với việc giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, cần quan tâm đúng mức đến việc rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật, thực hành chế độ công vụ, đổi mới quy trình, thủ tục làm việc.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, việc xây dựng đội ngũ cán bộ phải được tiến hành thường xuyên, kết hợp đào tạo cơ bản với việc nâng cao kỹ năng tác nghiệp; phải bảo đảm nguyên tắc công khai, dân chủ và bình đẳng từ khâu tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng đến sử dụng, đề bạt cán bộ, v.v., thực hiện phương châm một người chuyên sâu một vài việc nhưng biết nhiều việc.
Để làm tốt nhiệm vụ tham mưu, giúp việc, mỗi cán bộ của Văn phòng phải ra sức học tập, rèn luyện phẩm chất đạo đức, nâng cao trình độ nhận thức, hiểu biết, nhất là các chủ trương, chính sách của Đảng, thực tiễn đất nước và tri thức tiên tiến của thế giới về các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Thứ tư, duy trì, phát triển mối quan hệ công tác giữa Văn phòng Quốc hội với các cơ quan, tổ chức hữu quan để nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác tham mưu, phục vụ.
Hoạt động của Văn phòng Quốc hội có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chủ tịch nước và Văn phòng Chính phủ, với các bộ, ngành hữu quan, các đoàn thể và chính quyền địa phương các cấp. Thông qua việc duy trì và phát triển các mối quan hệ công tác đó mà Văn phòng Quốc hội có điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ tham mưu, phục vụ Quốc hội; góp phần quan trọng bảo đảm cho hoạt động của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quốc hội được nhịp nhàng, có hiệu quả. Trong thời gian tới, Văn phòng Quốc hội phải tiếp tục duy trì, phát triển và làm sâu sắc mối quan hệ phối hợp công tác giữa Văn phòng với các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện đầy đủ Quy ước phối hợp giữa Văn phòng Quốc hội với Văn phòng Trung ương Đảng, Văn phòng Chính phủ và Văn phòng Chủ tịch nước; tăng cường việc chia sẻ thông tin, kinh nghiệm giữa Văn phòng Quốc hội với Hội đồng nhân dân các cấp và các Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương.
Thứ năm, tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của Văn phòng Quốc hội nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội trong thời kỳ mới.
Với đặc điểm là đơn vị phục vụ chung cho Quốc hội và 12 cơ quan, bao gồm Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, 7 Ủy ban của Quốc hội và 3 Ban của Uỷ ban thường vụ Quốc hội nên khối lượng công việc của Văn phòng Quốc hội rất nhiều và đa dạng. Trong những năm qua, tổ chức và hoạt động của Văn phòng đã có những bước kiện toàn và đổi mới đáng kể nhưng để bảo đảm hiệu quả, chất lượng công tác tham mưu, phục vụ Quốc hội trong bối cảnh và yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa và trong điều kiện hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng sâu, rộng, cần tiếp tục đổi mới và nâng cao về mọi mặt hiệu quả hoạt động của Văn phòng Quốc hội. Đó là việc nghiên cứu để hợp lý hoá hơn chức năng, nhiệm vụ của các vụ, đơn vị trong Văn phòng; cải tiến quy trình và thủ tục làm việc trên cơ sở đề cao trách nhiệm của mỗi đơn vị và đồng thời, phải bảo đảm sự phối hợp và tính liên kết giữa các bộ phận.
Văn phòng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác thông tin, nghiên cứu chính sách nhằm phục vụ Quốc hội thực thi đầy đủ vai trò của mình là cơ quan đại diện dân cử cao nhất, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Công tác tham mưu, phục vụ Quốc hội phải được đẩy mạnh theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tiết kiệm, tránh lãng phí; đẩy mạnh công tác thông tin hai chiều về Quốc hội và đến Quốc hội.
Tăng cường cơ sở vật chất, kỹ thuật để bảo đảm điều kiện làm việc của các cơ quan của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và của Văn phòng Quốc hội; cải thiện, mở rộng và xây dựng mới nơi làm việc, đồng thời tăng cường trang thiết bị, phương tiện làm việc trên cơ sở triển khai mạnh mẽ việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Văn phòng và hệ thống các cơ quan của Quốc hội và với các cơ quan, tổ chức hữu quan.
Trước yêu cầu đổi mới hoạt động của Quốc hội, được sự quan tâm chỉ đạo của Đảng đoàn Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan, tổ chức hữu quan và sự nỗ lực phấn đấu của mỗi cán bộ, công chức, chắc chắn Văn phòng Quốc hội sẽ không ngừng phát triển để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn cách mạng mới, viết tiếp trang sử truyền thống vẻ vang của Văn phòng Quốc hội.