Thưa Chủ tịch
đoàn,
Thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trong khóa họp thứ 6 của Quốc hội, chúng tôi đã trình bày
bản báo cáo của Chính phủ về công tác cải cách ruộng đất chỉnh đốn tổ chức
và về công tác sửa sai. Quốc hội đã thảo luận, xác nhận thành tích căn bản
của cải cách ruộng đất và đã nghiêm khắc phê phán những sai lầm nghiêm trọng
của cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Đồng thời, Quốc hội đã thông
qua nhiệm vụ, đường lối, phương châm chính sách và kế hoạch chung, để sửa
chữa sai lầm, phát huy thắng lợi.
Trong khoảng thời gian 9 tháng vừa qua, dưới sự lãnh đạo
của Đảng và Chính phủ, các cấp và các ngành từ Trung ương đến địa phương đã
tập trung lực lượng tiến hành công tác sửa sai một cách kiên quyết và toàn
diện. Nhiều vị đại biểu Quốc hội đã trực tiếp tham gia công tác sửa sai,
hoặc đã góp ý kiến với Chính phủ xây dựng chính sách và lãnh đạo công tác
sửa sai.
Đến nay công
tác sửa sai ở nhiều địa phương đã căn bản hoàn thành, ở những địa phương
khác tuy chưa kết thúc. Song nhìn chung có thể nói rằng công tác sửa sai
về căn bản đã đạt được yêu cầu đã đề ra, tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề cần
được tiếp tục nghiên cứu và giải quyết.
Dưới đây, chúng tôi xin
báo cáo với Quốc hội về tình hình và kết quả công tác sửa sai, những vấn đề
tồn tại và những công tác trước mắt của nông thôn hiện nay.
I.
TÌNH HÌNH VÀ KẾT QUẢ CÔNG TÁC SỬA SAI
Tháng 9 năm
ngoái, khi Đảng và Chính phủ mới phát hiện sai lầm về cải cách ruộng đất và
chỉnh đốn tổ chức, tình hình ở nông thôn không được ổn định. Những người bị
quy sai thành phần hoặc bị xử trí sai trong cải cách ruộng đất có dịp nói
lên những điều oan ức của mình. Một số ít người vì quá uất ức, đã có những
hành động trái với chính sách và pháp luật của Chính phủ, như đánh đập những
người đã tố sai hoặc tự ý đi đòi lại tài sản, tranh chấp với những người
được chia. Anh chị em nông dân lao động, nhất là bần cố nông được chia ruộng
đất, trâu bò, nhà cửa, vì bị dư luận đả kích sinh ra hoang mang, lo lắng,
không yên tâm sản xuất. Một số người đã bán chạy hoặc phá hủy những tài sản
được chia. Tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể ở nông thôn tỏ ra kém
hiệu lực, nhiều nơi hầu như tê liệt, không hoạt động. Trong cán bộ, đảng
viên ở nông thôn, giữa những người bị xử trí sai với những người đã tố sai
có thành kiến với nhau khá sâu sắc; đoàn kết nông thôn giảm sút rõ rệt.
Lợi dụng tình hình nông thôn không ổn định, một số phần
tử địa chủ ngoan cố và bọn lưu manh, côn đồ đã trỗi dậy, có những hành động
khiêu khích trả thù, đánh đập cốt cán bần cố nông, hòng xóa tội lỗi của
chúng. Ở một số vùng có nhiều đồng bào công giáo, bọn phản động đội lốt tôn
giáo có âm mưu phá hoại, ra sức hoạt động nhằm xóa bỏ thành quả của cải cách
ruộng đất và ngăn cản việc sửa sai. Có nơi chúng lợi dụng nhân quyền giáo lý
để mê hoặc quần chúng, buộc nông dân công giáo phải trả lại ruộng đất, nộp
tô và trả lại những của đấu tranh được. Trắng trợn hơn nữa, có nơi bọn phản
động đã thúc đẩy một số người trong quần chúng công giáo gây rối loạn ở nông
thôn, chống lại chính quyền nhân dân (Quỳnh Yên), hoặc gây ra những cuộc
xung đột giáo lương (Diễn Bích, Diễn Vạn ở tỉnh Nghệ An)
Trong tình hình không ổn định nói trên, một số người đã
không nhận rõ đúng sai, nhận xét thiếu khách quan và toàn diện chỉ thấy sai
lầm mà không thấy thành quả của cải cách ruộng đất, ý thức giai cấp bị lu
mờ, cảnh giác bị tê liệt, tinh thần đấu tranh bị giảm sút. Vì chỗ sơ hở ấy,
những tư tưởng xấu và lạc hậu được dịp nẩy nở thêm, những đồi phong bại tục
được dịp phục hồi, bọn phá hoại và những phần tử xấu được dịp gây cho ta
thêm khó khăn.
Từ tháng 9-1956, Chính phủ quyết định trả lại tự do cho
những người bị giam giữ oan trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức.
Đến tháng 11-1956, sau khi có chính sách và kế hoạch cụ thể thì công tác sửa
sai mới được coi là công tác trung tâm đột xuất và tiến hành một cách toàn
diện. Diện sửa sai bao gồm 3.653 xã thuộc các miền đồng bằng, trung du, miền
biển đã trải qua cải cách ruộng đất và các vùng miền núi đã qua giảm tô.
Sau khi Đảng và Chính phủ đề ra chính sách và kế hoạch
sửa sai và tổ chức học tập trong toàn Đảng, toàn dân, tình hình nông thôn
bắt đầu có chiều hướng ổn định. Những sai lầm của cải cách ruộng đất và
chỉnh đốn tổ chức dần dần được sửa chữa, thành quả của cải cách ruộng đất
được giữ vững và phát huy, ranh giới giữa nông dân với địa chủ rõ rệt hơn;
âm mưu thâm độc của bọn phản động và những hành động khiêu khích, phá hoại
của những phần tử xấu ở nông thôn dần dần bị bộc lộ và bị đập tan trước sức
mạnh đoàn kết của nhân dân. Tuy nhiên, có nơi chúng còn đang ngấm ngầm hoạt
động phá hoại. Nhân dân cần phải cảnh giác và giúp đỡ cơ quan chính quyền
kịp thời trấn áp chúng.
Hiện nay,
nhiều nơi đã căn bản hoàn thành công tác sửa sai. Các tỉnh miền núi đã qua
giảm tô như Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Yên Bái, Bắc Thái Nguyên, rồi
đến khu Hồng Quảng,
khu vực Vĩnh Linh,
các vùng ngoại thành Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định và các tỉnh Hải Dương, Hưng
Yên, Hà Đông, Sơn Tây đã làm xong. Từ nay đến hết tháng 9, phần lớn các tỉnh
còn lại có thể sẽ kết thúc công tác sửa sai; riêng vài tỉnh như Nghệ An, Hà
Tĩnh sẽ kết thúc chậm hơn.
Nhìn chung, công tác sửa sai ở các địa phương tiến hành không đều và kéo dài
thời gian. Sở dĩ có tình trạng đó là vì công tác sửa sai có nhiều khó khăn
phức tạp, mức độ sai lầm chính sách đã được bổ sung dần dần, song có nhiều
chính sách cụ thể bổ sung hơi chậm. Mặt khác, trong thời gian qua, có nhiều
công tác quan trọng và cấp bách phải làm như chống hạn, phòng lụt để đảm bảo
sản xuất, thu thuế nông nghiệp, v.v. cho nên có lúc đã phải tạm hoãn công
tác sửa sai để tiến hành các công tác đó, làm cho thời gian bị kéo dài thêm.
Dưới đây, chúng tôi xin báo cáo về kết quả cụ thể của
từng mặt công tác sửa sai.
1. Trả lại tự do cho những người bị xử trí sai trong cải
cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức.
Tháng 9-1956, sau khi kiểm điểm công tác cải cách ruộng
đất và chỉnh đốn tổ chức, Trung ương Đảng và Chính phủ đã quyết định trả lại
tự do cho những cán bộ, nhân viên và những đồng bào không có tội nhưng bị
quy sai là phản động, bị giam giữ hoặc bị quản chế, bao vây ở nông thôn. Đó
là một biện pháp quan trọng và gấp rút để bước đầu sửa chữa những sai lầm
trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, giảm bớt tình trạng căng
thẳng, bước đầu ổn định tình hình nông thôn.
Việc trả lại tự do nói chung làm được kịp thời và có kết
quả tốt, được tiến hành từng bước một cách thận trọng, chắc chắn, theo đúng
nguyên tắc thủ tục pháp lý của Nhà nước và có sự chuẩn bị về tư tưởng cho
những người được trả lại tự do cũng như cho quần chúng ở địa phương. Tính
đến nay, có 23.748 người đã được ra khỏi trại giam, phần lớn là những người
không có tội, cũng có một số có tội không lớn được hưởng khoan hồng, được
phóng thích. Nhiều người được xóa án quản chế ở nông thôn.
Phần đông những người được trả lại tự do, tư tưởng được
thông suốt, đã gây được tác dụng tốt trong quần chúng, góp phần làm dịu tình
hình. Nhiều cán bộ bị xử trí sai, sau khi được giao lại công tác, mặc dầu
đời sống túng thiếu, khó khăn, sức khỏe giảm sút, nhưng đã tích cực tham gia
sửa sai, góp phần củng cố đoàn kết nội bộ, củng cố sự lãnh đạo của Đảng và
của chính quyền ở nông thôn. Cá biệt có những người vì tư tưởng chưa thông,
cho nên về địa phương đã gây ra những chuyện báo thù đáng tiếc.
Tuy nhiên ở một số nơi, việc trả lại tự do đã có những
thiếu sót, lệch lạc.
- Lúc đầu, có thiên hướng vội vàng, thiếu thận trọng,
chưa nắm vững tiêu chuẩn những người đáng được trả lại tự do trong từng
bước, thiếu điều tra chu đáo, quá tin vào lời khai của người bị giam giữ,
cho nên có nơi đã đưa ra khỏi trại giam hàng loạt, tha lầm cả một số phần tử
phản động có tội ác. Do đó, có những tên phản động được tha về đã tìm cách
phá hoại sửa sai, phá rối trật tự trị an ở nông thôn. Qua việc kiểm tra tình
hình ở một vài nơi thì những phần tử phản động có tội ác đã tha lầm chiếm tỷ
lệ trên 2% tổng số người được trả lại tự do, có nơi đến 4% (Vĩnh Linh).
- Việc thi hành thủ tục pháp lý còn thiếu sót, nhất là ở
cấp xã, không phân biệt những người không có tội được trả lại tự do với
những người có tội ít nhiều được khoan hồng, được phóng thích. Do đó, quần
chúng hoài nghi, hoang mang, không phân rõ sai và đúng, không phân biệt ranh
giới giữa ta và địch.
Những thiếu sót, lệch lạc kể trên đang được tiếp tục uốn
nắn, sửa chữa.
2.
Kiện toàn các tổ chức cấp xã, huyện, tỉnh:
Trên cơ sở học
tập thông suốt phương châm chính sách của Đảng và Chính phủ về sửa sai và
củng cố đoàn kết nội bộ, các tổ chức Đảng, Chính, Dân các cấp xã, huyện,
tỉnh đã dần dần được kiện toàn, nhờ đó đã tăng thêm khả năng và hiệu lực
lãnh đạo.
Ở nhiều xã,
chất lượng của các tổ chức được tăng thêm sinh hoạt và công tác bắt đầu có
nền nếp hơn trước. Theo sự điều tra sơ bộ của Bộ Nội vụ ở một số địa phương
thì tình hình Ủy ban hành chính xã sau khi được kiện toàn có thể phân loại
như sau:
Khu III: Trong
726 xã, có 246 xã khá (33%), 316 xã trung bình (44%) và 164 xã kém (23%).
Tỉnh Quảng
Bình: Trong 131 xã, có 41 xã khá (31%) 66 xã trung bình (50%) và 24 xã kém
(11%).
Vĩnh Linh:
Trong 22 xã có 5 xã khá (23%), 12 xã trung bình (54%) và 5 xã kém (23%).
Ở cấp huyện và cấp tỉnh, kể cả những nơi đã
trải qua chỉnh đốn tổ chức, việc kiện toàn các cơ quan lãnh đạo của chính
quyền đã đạt được kết quả tốt. Nhiều cán bộ tốt bị xử trí sai đã được trở
lại công tác cũ; đồng thời, một số cán bộ khác đã được đề bạt và bổ sung;
nhờ đó việc chỉ đạo về sửa sai và về các mặt công tác khác được tăng cường
hơn.
Việc kiện toàn tổ chức của Đảng, chính quyền và các đoàn
thể quần chúng từ cấp tỉnh đến cấp xã đã tăng cường được vai trò của chính
quyền chuyên chính dân chủ nhân dân, giữ vững được trật tự trị an, trấn áp
được bọn phản động và bọn địa chủ ngoan cố có những hành động phá hoại. Đối
với nhân dân chính quyền nói chung đã giải quyết được ổn thỏa các vụ tranh
chấp tài sản, hoa mầu, ngăn chặn được một số vụ xung đột, đã động viên, giáo
dục quần chúng tham gia sửa sai, đồng thời đã vận động quần chúng tham gia
đắp đê chống lụt, chống bão, đẩy mạnh sản xuất, đóng thuế nông nghiệp và bán
nông sản cho nhà nước.
Tuy nhiên, việc kiện toàn tổ chức cũng còn thiếu sót: lẻ
tẻ ở nhiều xã, có tình trạng trả lại chức vụ cho một số cán bộ đã mắc nhiều
sai lầm nghiêm trọng, hoặc những cán bộ thành phần địa chủ, phú nông được
quần chúng tín nhiệm. Có nơi vì thành kiến với những cán bộ mới được đào tạo
trong cải cách ruộng đất, cho nên đã gạt quá nhiều cán bộ mới, nhất là những
cốt cán phụ nữ, ra khỏi các cơ quan lãnh đạo ở xã, mặc dù họ không phạm sai
lầm nghiêm trọng. Có nơi chưa quán triệt đường lối nông thôn trong việc kiện
toàn các tổ chức chủ yếu ở xã, cho nên có những Ủy ban hành chính và Ban
chấp hành nông hội xã không được đảm bảo đúng tỷ lệ 2/3 là bần cố nông và
1/3 là trung nông (ví dụ 1/2 là bần cố nông, 1/2 là trung nông).
Những thiếu sót đó cần được khắc phục để tránh những trở
ngại về sau trong việc cải tạo nông thôn theo chủ nghĩa xã hội.
Một hiện tượng khá phổ biến đáng chú ý hiện nay là tư
tưởng cán bộ xã chưa thật ổn định, đoàn kết nội bộ chưa chặt chẽ, tinh thần
công tác thiếu phấn khởi.
Một số khá đông cán bộ tỏ ra mệt mỏi, có ý định xong sửa
sai sẽ xin nghỉ công tác, một số vì gia đình neo túng, cũng muốn nghỉ việc
để giải quyết đời sống. Một số cán bộ mới, trước khối lượng công việc quá
nhiều, bi quan với khả năng của mình, lo không làm nổi, sợ làm sai sẽ bị xử
trí, bị nhân dân đả kích. Một số cán bộ cũ trước bị xử trí sai còn thắc mắc
về việc đền bù tài sản và đãi ngộ vật chất. Trong cán bộ, giữa một số người
bị xử trí sai và người đấu tố sai, nhất là giữa những cán bộ cũ, vẫn còn
thành kiến với nhau.
Tình hình tư tưởng trên đây là do nhiều mặt: những sai
lầm về cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức đã được căn bản giải quyết
nhưng không thể giải quyết triệt để và thỏa mãn hoàn toàn mọi người được;
trong công tác sửa sai, còn tồn tại một số vấn đề về chính sách đang gây ra
thắc mắc, tư tưởng của cán bộ đảng viên chưa được nâng cao, chưa nhận rõ
tình hình thực tế một cách khách quan và toàn diện, chưa thống nhất được yêu
cầu và khả năng, chưa chuyển kịp với nhiệm vụ của giai đoạn mới. Nguyên nhân
về tư tưởng sau này là vấn đề chủ yếu nhất. Cho nên đi đôi với việc Đảng và
Chính phủ tiếp tục giải quyết những vấn đề về chính sách có thể giải quyết,
cần tăng cường giáo dục, nâng cao giác ngộ của cán bộ đảng viên, đoàn kết
chặt chẽ mọi người hơn nữa để cùng nhau khắc phục các khó khăn còn lại, ra
sức thực hiện nhiệm vụ mới.
3. Sửa thành phần và đền bù tài sản:
Sửa thành phần và đền bù tài sản là công tác mấu chốt, có
ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ công tác sửa sai. Đó lại là một công tác
khó khăn phức tạp, vì nó liên quan đến quyền lợi của mọi tầng lớp ở nông
thôn, đòi hỏi mọi người phải đoàn kết nhân nhượng với nhau thì mới giải
quyết tốt được.
Việc sửa thành phần nhằm sửa cho những nông dân lao động
hoặc những người thuộc các thành phần khác trong cải cách ruộng đất bị quy
lầm là địa chủ, phú nông. Nhưng trong dịp này một số địa chủ, phú nông muốn
lẩn trốn thành phần, đã lôi kéo họ hàng, bà con để hạ thành phần cho mình,
gây nên tình trạng sửa đúng thành sai.
Một số người được chia và lo phải trả lại tài sản, cho
nên tư tưởng bảo thủ, không muốn sửa thành phần cho người bị quy sai.
Một số khá đông người khác không được chia và cũng không
bị quy sai, thường có thái độ bàng quan, hoặc sợ thù oán mà không kiên quyết
bảo vệ chân lý.
Về đền bù tài sản thì có tình trạng:
Những người bị quy sai muốn được đền bù đầy đủ những tài
sản đã bị tịch thu hoặc trưng mua trong cải cách ruộng đất. Có người tự ý đi
đòi lại tài sản của mình, gây chuyện tranh chấp tài sản, hoa màu với những
người được chia.
Những người được chia thì có người vui lòng trả lại một
phần tài sản cho người bị quy sai, song cũng có người không muốn đền bù cho
người bị quy sai theo đúng chính sách của Đảng và Chính phủ, hoặc chỉ trả
lại những ruộng xấu, ruộng xa.
Trước tình hình phức tạp đó, Đảng và Chính phủ đã đề ra
yêu cầu của việc sửa thành phần và đền bù tài sản là:
- Phân rõ ranh giới giữa nông dân và địa chủ;
- Ổn định quyền sở hữu ruộng đất và củng cố vai trò làm
chủ nông thôn của nông dân lao động.
- Tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết nông thôn, đẩy
mạnh sản xuất;
- Chấp hành đúng đường lối nông thôn của Đảng và của Nhà
nước, phát động tư tưởng quần chúng sửa sai theo đúng chính sách.
Để đạt yêu cầu đó, Đảng và Chính phủ đã đề ra phương châm
chính sách như sau:
- Trong việc sửa thành phần, không để một người nào bị
quy sai là địa chủ, nhưng cũng không để cho một địa chủ lọt vào hàng ngũ
nông dân lao động.
- Trong việc đền bù tài sản, phải:
+ Đảm bảo quyền lợi của nông dân lao động (kể cả người bị
quy sai và người được chia), đồng thời chiếu cố thích đáng đến quyền lợi của
các tầng lớp khác nhằm tăng cường đoàn kết nông thôn, đoàn kết bần cố trung
nông.
+ Đền bù cho những người bị quy sai có đủ điều kiện làm
ăn sinh sống, đồng thời phải chú ý đảm bảo quyền lợi của người được chia,
làm cho mọi người nhận rõ Đảng và Chính phủ quan tâm đến đời sống của họ, do
đó mà củng cố lòng tin tưởng của họ, để họ yên tâm sản xuất.
+ Đền bù tài sản cho người bị quy sai phải dựa vào sự
thương lượng, bàn bạc và nhân nhượng của nông dân lao động là chính, ngoài
ra Chính phủ giúp đỡ đền bù một phần đối với những trung nông và những người
lao động khác bị quy sai để họ đỡ bị thiệt thòi quá nhiều.
- Căn cứ vào
phương châm chính sách kể trên, các địa phương đã giáo dục sâu rộng trong
Đảng và trong quần chúng, nhằm củng cố lập trường giai cấp nâng cao tinh
thần đoàn kết hữu ái, bảo thủ, bao che, muốn sửa tràn lan, muốn đền bù sòng
phẳng, hoặc không muốn đền bù…
Trên cơ sở
củng cố lập trường và nâng cao tư tưởng của cán bộ và quần chúng, việc sửa
thành phần và đền bù tài sản đã được tiến hành và nói chung đã đạt được kết
quả tốt.
Về
sửa thành phần:
Theo báo cáo của các khu và các tỉnh đã sửa xong thành phần thì trong số
2.033 xã có 63.113 hộ trong cải cách ruộng đất đã bị quy là địa chủ, nay sửa
cho 31.844 hộ (tỷ lệ 50,4%). Những người bị quy sai này được sửa lại thành
phần phần lớn thuộc tầng lớp trung nông. Số đúng là địa chủ có 31.269 hộ,
chiếm tỷ lệ 2,2% tổng số hộ ở nông thôn.
Về địa chủ cường hào gian ác, trong cải cách ruộng đất đã
quy 14.908 người, nay đã sửa lại còn 3.932 người.
Về địa chủ kháng chiến, trong cải cách ruộng đất chỉ có
461, nay là 2.696 người.
Qua kiểm tra tình hình ở một số xã thuộc Liên khu 3, Liên
khu 4 và các tỉnh Vĩnh Phúc, Hải Dương thì việc sửa thành phần căn bản là
đúng và đại bộ phận những người bị quy sai đều đã được sửa lại. Tuy nhiên,
có những trường hợp có người bị quy sai chưa được sửa, hoặc có người là địa
chủ lại hạ lầm xuống trung nông hoặc phú nông. Phần nhiều đó là những trường
hợp nhập nhằng, có những khó khăn trong việc vận dụng tiêu chuẩn chính sách,
trong việc tính lao động chính, tính công bóc lột, tính vợ lẽ, con nuôi… Cá
biệt cũng có trường hợp có người rõ ràng đúng là địa chủ nhưng vì anh em họ
hàng bao che mà sửa lầm thành phần, hoặc có người không phải địa chủ, song
vì một số cán bộ có tư tưởng bảo thủ, ngại khó cho nên không sửa thành phần
cho họ.
Về đền bù tài sản:
Việc đền bù tài sản là một vấn đề rất khó khăn phức tạp.
ruộng đất, tài sản của những người bị quy sai trong cải cách ruộng đất đã
đem chia cho nông dân lao động; các tài sản đó có thứ vẫn còn trong tay
người được chia, có thứ đã bị tiêu dùng hết, có thứ đã bị chuyển dịch sang
tay người khác.
Do đó không thể giải quyết đơn giản bằng cách rút lại tất
cả những thứ tài sản đó để trả lại cho người bị quy sai. Cũng không thể nhất
loạt đem chia lại ruộng đất, vì như thế sẽ gây ra xáo trộn lúng túng, động
chạm đến quyền lợi của số đông quần chúng nông dân lao động, ảnh hưởng không
tốt đến việc củng cố khối Liên minh công nông. Vì thế, việc đền bù tài sản
phải tiến hành trên cơ sở thương lượng, điều chỉnh quyền lợi giữa những
người được chia và người bị quy sai, giải quyết thích đáng quyền lợi và điều
kiện làm ăn sinh sống của cả hai bên.
Do việc giáo dục trong cán bộ và đảng viên, do việc vận
động sâu rộng trong quần chúng, cho nên những nơi đã đền bù tài sản nói
chung đã thực hiện đúng chính sách của Đảng và Chính phủ. kết hợp với việc
đền bù tài sản cho những người bị quy sai, nhiều nơi đã thi hành chính sách
ưu đãi đối với thương binh, quân nhân cách mạng và gia đình liệt sĩ.
Theo tài liệu thống kê trong 421 xã của các tỉnh thì có
4.777 hộ bị quy sai, được đền bù tài sản. Trong cải cách ruộng đất đã tịch
thu, trưng thu và trưng mua của họ 18.856 mẫu 5 sào 10 thước ruộng đất,
5.048 trâu bò và 3.772 nhà cửa. Nay sửa sai đã đền bù cho họ 3. 857 mẫu, 3
thước, cộng với 4.742 mẫu 9 sào 6 thước trong cải cách ruộng đất đã để lại
cho họ, như vậy các hộ nói trên hiện có 8.599 mẫu 9 sào 9 thước; số còn
thiếu của họ là 10.256 mẫu 6 sào 01 thước.
Về trâu bò, đã đền bù được 1.708 con, còn thiếu 3.340
con.
Về nhà cửa, đã trả lại nhà cũ cho 2.263 hộ, ngoài ra có
975 hộ được trả lại nhà cũ, nhưng lại vui lòng nhường lại một phần cho bần
cố nông thiếu nhà ở.
Đối với số ruộng đất và trâu bò còn thiếu của những người
là trung nông bị quy sai, Chính phủ đã quyết định sẽ trích ngân sách nhà
nước giúp đỡ đền bù một phần để họ đỡ bị thiệt thòi quá đáng; số Chính phủ
giúp đền bù sẽ được trả dần trong thời hạn 5 năm.
Trong việc đền bù tài sản, đồng bào nông dân lao động đã
nêu cao tinh thần đoàn kết, tương trợ, thương yêu giai cấp rất đáng quý.
Nhiều người nhận rõ những khó khăn của việc đền bù tài sản, nghĩ rằng “của
đã đổ, bốc không đầy”, đã vui lòng chịu thiệt một phần, không đòi đền bù đầy
đủ. Có được trả lại ruộng đất, nhà cửa, nhưng vì có đủ nhà ở và tương đối đủ
ruộng làm, đã tự nguyện nhường lại cho anh em bần cố nông thiếu nhà, thiếu
ruộng. Có những đồng bào trung nông không được chia, nhưng thông cảm với khó
khăn của việc sửa sai, đã vui vẻ giúp một phần tiền của để đền bù cho những
người bị quy sai. Những cử chỉ cao quý đó về tình đoàn kết, thương yêu giai
cấp rất đáng được biểu dương. Tuy nhiên, trong việc đền bù tài sản, bên cạnh
những kết quả và ưu điểm nói trên, vẫn có những thiếu sót, lệch lạc:
- Có nơi không
đi đúng đường lối quần chúng, cán bộ không chịu khó đi sâu giáo dục, vận
động quần chúng, cho rằng đối với người bị quy sai thì trả lại cho họ được
bao nhiêu hay bấy nhiêu cho nên đền bù toàn ruộng xấu, ruộng xa và dùng mệnh
lệnh ép buộc họ phải nhận; có nơi không trả lại một phần ruộng nguyên canh
và không trả lại ruộng hương hỏa cho người bị quy sai vì thiếu cố gắng giải
quyết hoặc có khi vì thực tế có nhiều khó khăn trong việc giải quyết.
- Có nơi không
chú ý đảm bảo quyền lợi của những người được chia, dùng mệnh lệnh buộc những
người được chia phải trả hết ruộng đất, trâu bò, nhà cửa và các thứ tài sản
khác cho người bị quy sai, làm cho một số bần cố nông không có ruộng cày và
nhà ở, có người phải ra đình, ở điếm, hoặc phải đi nơi khác kiếm ăn.
Tóm lại, trong
việc đền bù tài sản, nhìn chung kết quả đạt được căn bản là tốt; nhưng có
những thiếu sót, lệch lạc cần được tiếp tục uốn nắn và sửa chữa.
4.
Điều chỉnh diện tích và sản lượng:
Việc điều chỉnh diện
tích và sản lượng đã được đề ra và tiến hành từ bước 1 của công tác sửa sai,
song vì lãnh đạo không chặt chẽ và thiếu giáo dục kỹ cho quần chúng, cho nên
ở nhiều nơi, nhất là các tỉnh thuộc Liên khu 3, diện tích và sản lượng đã
sụt xuống quá thực tế khá nhiều. Những nơi đã điều chỉnh diện tích và sản
lượng nói chung kết quả chưa được tốt, do đó năm vừa qua thuế nông nghiệp đã
thất thu hàng chục vạn tấn thóc, gây khó khăn cho ngân sách nhà nước.
Hiện nay Đảng và Chính
phủ chủ trương tạm hoãn việc điều chỉnh diện tích và sản lượng; sau khi sửa
sai xong sẽ tập trung lực lượng giáo dục và lãnh đạo quần chúng đặng công
tác này cho tốt hơn.
5. Kết
hợp với sửa sai, đẩy mạnh các công tác sản xuất thu thuế nông nghiệp, thu
mua nông sản:
Trong việc chỉ
đạo công tác sửa sai, Đảng và Chính phủ đã đặc biệt nhắc nhở các cấp phải
chú ý thực hiện các công tác quan trọng như chống hạn, phòng và chống bão
lụt để đảm bảo sản xuất, thu thuế nông nghiệp, thu mua nông sản, v.v.. Các
công tác nói trên đã đạt được những kết quả nhất định.
Tuy nhiên, vì
trong công tác sửa sai còn tồn tại một số vấn đề, tình hình nông thôn chưa
thực sự ổn định, cho nên quần chúng chưa thật yên tâm và phấn khởi sản xuất,
ý thức tương trợ, hợp tác và tinh thần tham gia các công tác lợi ích chung ở
nông thôn chưa được phát huy mạnh mẽ.
6. Vài
nét về tình hình sửa sai ở những vùng có những đặc điểm khác nhau:
a) Vùng ngoại
thành:
Công tác sửa sai ở các
vùng nông thôn ngoại thành Hà Nội, Hải Phòng cũng được tiến hành đồng thời
với các vùng nông thôn khác và đã kết thúc vào tháng 7 năm 1957.
Tình hình ở các vùng này
ngoài những điểm chung của nông thôn, còn có những đặc điểm như sau:
- Ruộng đất ít, ngoài số
ruộng trồng lúa, còn là đất trồng rau, trồng hoa để cung cấp cho thành phố.
- Nhân dân các vùng
ngoại thành, ngoài nghề làm ruộng, còn làm nhiều nghề khác, ở những xã sát
nội thành càng có nhiều người không làm ruộng như công nhân, dân nghèo, tiểu
thương, người làm nghề thủ công, v.v..
- Nhiều người ở trong
thành phố làm nghề công thương, viên chức, tiểu thương, công nhân, cũng có
ít nhiều ruộng đất ở ngoại thành cho phát canh hoặc thuê người làm; Phần lớn
những ruộng đất đó đã được trưng mua đem chia cho nông dân.
- Trong cải cách ruộng
đất, ngoài số địa chủ quy đúng, ta đã quy sai lên địa chủ một số trung nông
và một số người làm nghề công thương, viên chức, tiểu thương, công nhân có
ít nhiều ruộng đất phát canh hoặc thuê người làm.
Khi tiến hành sửa sai ở
các vùng ngoại thành, Đảng và Chính phủ đã bổ sung chính sách cụ thể, chú ý
đúng mực đến tình hình và đặc điểm nói trên.
Nay kiểm điểm lại, công
tác sửa sai ở các vùng ngoại thành đã căn bản đạt được yêu cầu.
Những người thuộc thành
phần nhân dân lao động bị quy sai là địa chủ, phú nông đều đã được sửa thành
phần. Một số người làm nghề công thương, viên chức, có ít nhiều ruộng đất
phát canh hoặc thuê người làm trong cải cách ruộng đất bị quy là địa chủ
hoặc là người làm nghề khác kiêm địa chủ, nay cũng đã tùy từng trường hợp cụ
thể mà được sửa lại hoặc được thay đổi thành phần.
Việc đền bù tài sản cho
những người bị quy sai đã được giải quyết trên cơ sở thương lượng điều chỉnh
giữa những người được chia và người bị quy sai, theo phương châm đảm bảo
điều kiện làm ăn sinh sống của người bị quy sai, đồng thời đảm bảo quyền lợi
của người được chia. Đối với những người làm nghề khác bị quy sai thành phần
đã vận động nông dân trả lại các tài sản chính thuộc là những công cụ sản
xuất. Song có một số tài sản khác của người bị quy sai như đồ dùng trong
nhà, thóc lúa, tiền bạc, v.v.. thì nay đã hư hỏng hoặc không còn nữa, không
thể đền bù đầy đủ được, cho nên đã vận động những người bị quy sai cố gắng
bằng lòng chịu thiệt.
Đối với những
người bị quy sai thành phần mà hoàn cảnh khó khăn của nông thôn không thể
đền bù tài sản cho họ một cách thỏa đáng, nay nếu xét họ quá túng thiếu thì
Chính phủ giúp đỡ một phần để họ có điều kiện sinh sống và sản xuất.
Các tổ chức
của Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng ở xã cũng được bước đầu
kiện toàn. Trong các Uỷ ban hành chính xã, có đủ đại biểu các tầng lớp nhân
dân lao động tham gia, chú ý công nhân và bần cố nông.
Sau sửa sai
tình hình nông thôn ngoại thành đã ổn định hơn trước, nhân dân đoàn kết và
hăng hái tham gia sản xuất. Tuy nhiên, việc sửa sai ở đây cũng còn lại một
số vấn đề như các nơi khác cần được tiếp tục giải quyết.
b) Vùng có
đông đồng bào công giáo:
Ở miền Bắc nước ta hiện
nay có trên 70 vạn đồng bào công giáo; có 3 nơi đồng bào công giáo ở đông
nhất là Bùi Chu, Phát Diệm (Liên khu 3) và Xã Đoài (Liên khu 4).
Trong cuộc phát động
quần chúng cải cách ruộng đất, trình độ giác ngộ chính trị của đồng bào nông
dân công giáo đã được bước đầu nâng cao; giai cấp địa chủ đã bị đánh đổ,
ruộng đất, tài sản của địa chủ đã được tịch thu, trưng thu, trưng mua và một
phần ruộng đất của nhà chung đã được trưng thu, trưng mua đem chia cho nông
dân. Bên cạnh những thành quả ấy, cải cách ruộng đất ở các vùng có đông đồng
bào công giáo cũng phạm sai lầm như các vùng khác, ngoài ra, còn phạm một số
sai lầm trong việc thực hiện chính sách tôn giáo.
Mặc dù bọn phản động đội
lốt tôn giáo ra sức phá hoại, công tác sửa sai ở các nơi có đông đồng bào
công giáo gặp nhiều khó khăn, nhưng nói chung, do sự chỉ đạo chặt chẽ của
Đảng và Chính phủ, cán bộ có tinh thần chịu đựng gian khổ, đi sâu vận động
giáo dân, cho nên cuối cùng đã tranh thủ được quần chúng, và tiến hành sửa
sai tương đối có kết quả. Những sai lầm về thực hiện chính sách tôn giáo đã
được sửa chữa; Những người không có tội lỗi đã được trả lại tự do, những
người có ít nhiều tội lỗi với giáo dân cũng đã được hưởng khoan hồng (cá
biệt có một số thật sự tội ác không nhỏ nhưng vì lẽ này hay lẽ khác cũng
được hưởng khoan hồng). Việc trả lại nội tự cho Nhà chung, Nhà chùa, trả lại
đồ thờ cúng bị trưng thu nhầm trong cải cách ruộng đất được các địa phương
cố gắng giải quyết. Ngoài ra, chính quyền các địa phương đã giúp đồng bào
công giáo sửa chữa một số nhà thờ và tổ chức chu đáo những ngày lễ lớn. Hiện
nay, ở các vùng có đông đồng bào công giáo, đang tiến hành việc sửa thành
phần và đền bù tài sản. những công việc ấy đã được số đông đồng bào công
giáo đồng tình.
Tuy nhiên, nhìn chung,
công tác sửa sai ở các vùng có đông đồng bào công giáo gặp nhiều khó khăn,
lúc đầu có nơi bị động, rụt rè, không kiên quyết đối phó với những phần tử
phản động đội lốt tôn giáo trắng trợn ngăn cản và phá hoại sửa sai, phong
trào tiến chậm so với các nơi khác, sự chỉ đạo của các cấp Đảng và Chính
quyền ở những nơi đó chưa được vững và kịp thời. Hiện nay các thiếu sót ấy
đang được sửa chữa.
c) Miền biển:
Miền biển miền Bắc nước
ta chạy dài hơn 700 cây số, gồm có 195 xã, trong đó 154 xã đã qua cải cách
miền biển. Tình hình ở đây rất phức tạp: đồng bào làm nhiều nghề nghiệp khác
nhau, trình độ giác ngộ của quần chúng không được đều so với các vùng nông
thôn ở trung du và đồng bằng. Trong cải cách miền biển, giai cấp địa chủ và
bọn cường hào gian ác đã bị đánh đổ, song đã phạm sai lầm đánh địch tràn lan
và quy sai thành phần nhiều. (Theo báo cáo một số nơi đã sửa xong thành phần
thì tỷ lệ quy sai thành phần ở miền biển trung bình là 70%). Trong sửa sai,
miền biển có những khó khăn đặc biệt hơn các nơi khác: ruộng đất trồng trọt
ít, đất ở cũng ít, thuyền lưới của những người bị quy sai đã đem chia cho
các tập đoàn đánh cá, không thể rút ra được.
Hiện nay, những xã miền
biển ở Hải Phòng, Hồng Quảng, Vĩnh Linh đã sửa sai xong; phần lớn các xã
khác ở miền biển đang tiến hành đền bù tài sản. Một số xã đã đền bù xong,
nói chung đạt được kết quả; nhờ phát động tư tưởng quần chúng tương đối tốt,
cho nên đã thực hiện được phương châm “sửa sai trên cơ sở đảm bảo sản xuất”.
Việc thực hiện chính
sách sửa sai về thành phần và đền bù tài sản đối với những người làm nghề
nghiệp khác ngoài nghề nông đã tranh thủ được sự đồng tình của nhiều người.
Mặc dù không rút lại các thuyền lưới đã chia cho các tập đoàn để trả lại cho
những người bị quy sai, nhưng ở đây, nhờ quần chúng đã quen với lối làm ăn
tập đoàn, cho nên việc thương lượng, nhân nhượng giữa tập đoàn đánh cá được
chia thuyền lưới với người bị quy sai đã được giải quyết tương đối ổn thỏa.
Về các tổ chức thì ở một
số nơi, hội dân đánh cá đã củng cố được sinh hoạt từ tiểu tổ lên cấp xã,
nhưng vì quan niệm về tổ chức chưa thống nhất, cho nên công tác của hội còn
lúng túng.
Tình hình sửa sai miền
biển nói chung tương đối ổn, vì chính sách sửa sai được bổ sung cụ thể, cán
bộ tích cực công tác, quần chúng sẵn có tinh thần tin tưởng và đoàn kết
tương trợ.
Mặc dù những người bị
quy sai bị thiệt thòi một phần, những người được chia phải trả lại một phần
tài sản để đền bù cho người bị quy sai, nhưng đời sống mọi người nói chung
không bị ảnh hưởng nhiều. Nhờ sản xuất được đẩy mạnh, đời sống đồng bào miền
biển được cải thiện hơn trước.
d) Miền núi:
Khu tự trị Việt Bắc và
khu Lào - Hà - Yên có 535 xã đã qua giảm tô trong đó có 49 xã đã qua cải
cách ruộng đất. Ở đây, tình hình có nhiều vấn đề phức tạp, hiện nay chưa
được kết luận; phải chờ cuộc điều tra nông thôn ở miền núi có kết quả mới
xác định được đường lối nông thôn và chính sách ruộng đất ở miền núi.
Công tác sửa sai ở các
địa phương lại tiến triển không đều nhau song nhìn chung, đã thu được những
kết quả nhất định. Việc sửa thành phần, đền bù tài sản trong phạm vi sửa sai
về giảm tô và cải cách ruộng đất căn bản đã làm xong. Tuy vậy, đôi nơi có
trường hợp hạ lầm thành phần hoặc chưa đền bù xong một số tài sản đặc biệt
như những đồ dùng có quan hệ đến phong tục, tập quán của đồng bào miền núi.
Theo báo cáo thì ở 393
xã thuộc khu tự trị Việt Bắc trong cải cách ruộng đất đã quy 2.245 hộ là địa
chủ, nay đã sửa cho 1.861 hộ, chỉ còn 384 hộ là địa chủ.
Hiện nay, ở những vùng
miền núi đã sửa sai xong, nói chung các tổ chức ở xã vẫn còn yếu, nội bộ
chưa được đoàn kết nhất trí, có nơi xích mích giữa dân tộc này và dân tộc
khác vẫn chưa được dàn xếp; vẫn để đền bù tài sản chưa được giải quyết thỏa
đáng, nên có nơi vẫn xảy ra tranh chấp tài sản, ảnh hưởng không tốt đến đoàn
kết và sản xuất. Đó là một số vấn đề phải tiếp tục giải quyết.
II.
NHỮNG ƯU ĐIỂM VÀ KHUYẾT ĐIỂM TRONG VIỆC LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC SỬA SAI
Nhìn chung công tác sửa
sai qua các bước và các vùng khác nhau đã thu được kết quả tốt.
Sở dĩ đạt được kết quả
đó là vì:
1. Nhân dân ta rất tốt,
có truyền thống đoàn kết và tin tưởng vững chắc. Trong những lúc khó khăn,
nhân dân ta đã gắn bó chặt chẽ với Đảng và Chính phủ. Trước những sai lầm
của cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, đại đa số đồng bào đã nhận rõ
tình hình chung, tỏ thái độ đúng mức và nhận rõ trách nhiệm của mình là phải
tích cực góp phần vào việc sửa sai. Những đồng bào bị quy sai thành phần bị
xử trí sai, tuy bị thiệt thòi về tinh thần và vật chất thậm chí có một số
gia đình có người bị thiệt mạng, nhưng nói chung đồng bào đã nén đau thương
và cố gắng tham gia công việc chung.
Nhờ có truyền thống đoàn
kết và tin tưởng ấy của nhân dân, công tác sửa sai đã tiến triển thuận lợi,
đồng thời chúng ta đã đánh bại được âm mưu thâm độc của bọn phản động trong
nước và ngoài nước định gây chuyện rối ren trong thời gian vừa qua.
2. Cán bộ của ta phần
lớn là tốt, căn bản đã giữ vững được đoàn kết, nhất trí, kiên quyết bảo vệ
thành quả của cách mạng và lợi ích của nhân dân; đã tận tụy, tích cực công
tác, chịu đựng gian khổ đi sát quần chúng và chấp hành đúng chính sách của
Đảng và Chính phủ.
Cán bộ đảng viên bị xử
trí sai, sau khi được trả lại tự do nhận lại công tác, đã đặt lợi ích của
nhân dân lên trên hết, giữ vững đoàn kết nội bộ, tích cực công tác, phục vụ
nhân dân.
3. Chính sách và kế
hoạch sửa sai của Đảng và Chính phủ căn bản là đúng. Đảng và Chính phủ lại
kiên quyết tập trung lực lượng, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân tiến hành công
tác sửa sai. Trong quá trình công tác, Đảng và Chính phủ đã theo dõi chặt
chẽ, bổ sung các chính sách và kế hoạch cụ thể để hướng dẫn các cấp. Đồng
thời, sau khi cân nhắc các mặt và tính toán kỹ, Chính phủ đã quyết định
trích một phần ngân sách giúp đền bù cho những trung nông và thành phần lao
động khác bị thiệt thòi quá nhiều, để đảm bảo thực hiện đúng đường lối nông
thôn của Đảng và của Nhà nước. Kết hợp với sửa sai, việc lãnh đạo thực hiện
các công tác khác ở nông thôn, nhất là công tác sản xuất, đã thu được những
kết quả tương đối tốt.
Tuy nhiên về mặt lãnh
đạo, từ Trung ương đến các địa phương có những khuyết điểm như sau:
Về lãnh đạo tư tưởng:
Trong việc phổ biến Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 10 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt
Nam và Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp tháng 10 năm ngoái,
trên nhận thức và tư tưởng của một số cán bộ và nhân dân có những lệch lạc,
như cho cải cách ruộng đất là thất bại, hoặc chỉ thấy sai lầm của cải cách
ruộng đất mà không thấy hoặc phủ nhận thành quả của cải cách ruộng đất; hoặc
cho đường lối nông thôn và chủ trương phát động quần chúng cải cách ruộng
đất của Đảng và Chính phủ là sai lầm, v.v.. Nhưng về mặt lãnh đạo tư tưởng,
Trung ương cũng như các địa phương đã không kịp thời và thiếu kiên quyết đấu
tranh uốn nắn các lệch lạc đó. Trái lại, có nơi đã buông lỏng việc lãnh đạo
tư tưởng, để cho những tư tưởng sai lầm, lạc hậu có cơ hội nảy nở. Thậm chí
đối với những hành động vô tổ chức, vô kỷ luật của một số ít cán bộ và nhân
dân, cũng không kiên quyết, không kịp thời giáo dục và ngăn chặn. Những nhận
thức, tư tưởng lệch lạc đó chậm được uốn nắn, đã ảnh hưởng không tốt đến
việc thực hiện các công tác trả lại tự do, giữ vững trật tự an ninh, kiện
toàn tổ chức, sửa thành phần và đền bù tài sản,v.v..
Về lãnh đạo chính sách:
Nói chung, các chính
sách cụ thể về sửa sai đề ra chậm, có chính sách thiếu cụ thể hoặc thiếu cơ
sở điều tra thực tế đầy đủ, phải bổ sung nhiều lần, làm cho cán bộ nhất là ở
xa khó nắm vững.
Về lãnh đạo tổ chức:
Trong thời gian đầu,
không kịp thời tăng cường bộ máy giúp việc chỉ đạo sửa sai ở các cấp và chậm
động viên cán bộ tham gia sửa sai. Kế hoạch sửa sai lúc đầu thiếu cụ thể,
các địa phương tiến hành không thống nhất. Có nơi điều chỉnh diện tích và
sản lượng trước, có nơi vội vàng sửa thành phần và đền bù tài sản trong khi
Đảng và Chính phủ chưa công bố chính sách cụ thể, cho nên đã phạm nhiều lệch
lạc, sau mới uốn nắn theo một kế hoạch chung. Một vài nơi, cấp lãnh đạo
thiếu ý thức tổ chức và kỷ luật, tự ý đặt ra chính sách, không báo cáo và
xin chỉ thị, nhưng Đảng và Chính phủ đã chậm phát hiện và sửa chữa kịp thời.
Những khuyết điểm ấy một
phần đã làm cho công tác sửa sai bị kéo dài. Tuy nhiên, những khuyết điểm ấy
xảy ra trong thời gian đầu, về sau Đảng và Chính phủ đã kiểm điểm và có uốn
nắn, sửa chữa.
III.
NHIỆM VỤ CÔNG TÁC TRƯỚC MẮT CỦA NÔNG THÔN HIỆN NAY
Nhìn chung, từ khi bắt
đầu tiến hành công tác sửa sai đến nay, chúng ta đã gặp nhiều khó khăn và
trong từng bước công tác cụ thể
mắc nhiều
thiếu sót, khuyết điểm, song công tác sửa sai căn bản đã đạt được kết quả
tốt, đồng thời vẫn còn một số vấn đề tồn tại cần được tiếp tục nghiên cứu và
giải quyết.
Ở những nơi đã hoàn
thành công tác sửa sai, tình hình nông thôn đã chuyển biến tốt và căn bản.
Khi mới phát hiện sai lầm, tư tưởng của cán bộ và nhân dân căng thẳng, nay
dần dần được ổn định. Nhiều người đã thống nhất nhận định về thắng lợi căn
bản cũng như về sai lầm của cải cách ruộng đất và đã thông suốt đường lối,
phương châm, chính sách sửa sai của Đảng và Chính phủ, do đó đã hăng hái
tham gia sửa sai có kết quả.
Những người bị
quy sai đã được sửa thành phần và được đền bù tài sản, tương đối có điều
kiện làm ăn sinh sống.
Quyền sở hữu
ruộng đất của nông dân lao động được xác định, quyền làm chủ nông thôn của
nông dân lao động được củng cố.
Nói chung,
tình đoàn kết trong nông dân lao động được giữ vững, trật tự, trị an được
củng cố, sản xuất được phát triển.
Cơ sở tổ chức của Đảng,
chính quyền và các đoàn thể quần chúng ở nông thôn được kiện toàn hơn trước,
nội bộ đoàn kết hơn, tác dụng về hiệu lực lãnh đạo đã tăng thêm.
Tuy nhiên, tình hình
nông thôn hiện nay không phải đã mười phần tốt đẹp cả, không phải không còn
có khó khăn và khuyết điểm. Một số nơi tuy đã sửa sai xong, nhưng vì làm
chưa tốt cho nên trong quần chúng còn có người thắc mắc, chưa yên tâm và
phấn khởi sản xuất, vẫn còn xảy ra xích mích, pháp luật chưa được tôn trọng
triệt để. Ngay ở những nơi đã sửa sai xong tương đối tốt, tình hình đoàn kết
trong nông dân lao động vẫn chưa được thật chặt chẽ, nhất là giữa một số
người bị quy sai với những người có tham gia đấu tố và những người được
chia, vẫn chưa thật sự gắn bó mật thiết với nhau. Nạn cờ bạc, rượu chè, đình
đám, mê tín… vẫn còn lẻ tẻ ở một số địa phương. Trong cán bộ đảng viên vẫn
còn một số chưa thật yên tâm và phấn khởi công tác. Hiện tượng mỏi mệt, muốn
xin nghỉ công tác còn khá phổ biến. Đoàn kết nội bộ chưa thật vững chắc.
Sau cải cách
ruộng đất, trong công tác nông thôn lại có nhiều vấn đề mới phải giải quyết:
ý thức làm ăn tương trợ, hợp tác trong nông dân chưa được nâng cao; tình
trạng mua bán ruộng đất, cho vay nặng lãi, lẻ tẻ đã thấy xuất hiện; một số
khá đông người ít muốn bán nông sản cho Nhà nước theo giá quy định, chậm trả
nợ ngân hàng, chậm đóng thuế nông nghiệp, không sốt sắng tham gia các công
tác lợi ích chung như giữ đê, phòng lụt, chống hạn….
Về giai cấp địa chủ, sau
khi bị đánh đổ, số đông đã chịu lao động cải tạo, nhưng còn một số ít phần
tử địa chủ ngoan cố vẫn âm mưu ngóc đầu dậy hoạt động phá hoại, gây chia rẽ
ở nông thôn. Nhất là ở những nơi có đông đồng bào công giáo, bọn phản động
đội lốt tôn giáo vẫn tiếp tục dùng mọi thủ đoạn thâm độc trắng trợn hòng
khống chế giáo dân ly gián quần chúng công giáo với Đảng và Chính phủ, âm
mưu xóa bỏ thành quả của cải cách ruộng đất.
Ngoài ra còn một số công
tác trong sửa sai chưa làm hoặc làm chưa được tốt, cần được nghiên cứu và
tiếp tục giải quyết như:
- Điều chỉnh diện tích
và sản lượng.
- Tiếp tục
kiểm tra các vụ án còn lại, trả lại tự do cho một số người có đủ tiểu chuẩn,
đồng thời theo dõi và có thái độ xử trí thích đáng đối với những phần tử có
tội ác đã tha lầm.
- Nâng cao
cảnh giác, đề phòng và ngăn ngừa mọi hành động của bọn phá hoại.
- Tiếp tục
giải quyết một số trường hợp sửa thành phần và đền bù tài sản chưa đúng
chính sách.
Căn cứ vào
tình hình trên đây, để tiếp tục củng cố nông thôn, đưa nông thôn tiến dần
lên con đường làm ăn có tổ chức, đẩy mạnh sản xuất, chúng tôi nhận thấy hiện
nay có mấy việc chính phải làm như sau:
1.
Hoàn thành tốt công tác sửa sai và xúc tiến tổng kết cải cách ruộng đất:
Những nơi chưa
hoàn thành công tác sửa sai cần tập trung lãnh đạo để hoàn thành được tốt và
gọn.
Những nơi đã
sửa sai xong cần kiểm điểm toàn bộ công tác sửa sai, đánh giá kết quả đạt
được và những vấn đề tồn tại để tiếp tục giải quyết.
Đi đôi với
việc hoàn thành công tác sửa sai, cần xúc tiến chuẩn bị tổng kết toàn bộ
cuộc vận động cải cách ruộng đất và nghiên cứu đường lối tiến lên của nông
thôn sau cải cách ruộng đất nhằm rút ra những bài học kinh nghiệm cho công
tác nông thôn, thống nhất tư tưởng của cán bộ và nhân dân trong công cuộc tổ
chức lại nền sản xuất nông nghiệp.
2. Đẩy
mạnh các công tác kinh tế tài chính ở nông thôn:
Trước mắt, cần
ra sức chống hạn, chống úng thủy, phòng lụt, phòng bão, trừ sâu, phòng dịch
để hoàn thành tốt vụ mùa và chuẩn bị tốt vụ chiêm.
Kết hợp với
sản xuất và để đẩy mạnh sản xuất, cần ra sức củng cố và phát triển các tổ
đổi công, nhất là các tổ đổi công thường xuyên.
Đối với các
hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, cần tiếp tục củng cố và tùy theo
tình hình từng nơi mà có kế hoạch phát triển một cách vững chắc.
Rút kinh
nghiệm để củng cố những hợp tác xã sản xuất nông nghiệp hiện có.
Đồng thời tiếp
tục điều chỉnh diện tích và sản lượng tương đối sát với tình hình ruộng đất
để làm cơ sở cho việc thực hiện chính sách thuế nông nghiệp.
Thực hiện tốt
chính sách thu mua nông sản và thu nợ cho Nhà nước góp phần quản lý thị
trường, chống đầu cơ tích trữ.
3.
Phát triển các công tác văn hóa xã hội:
Phát triển
bình dân học vụ theo đúng kế hoạch của Nhà nước, tăng cường công tác vệ
sinh, phòng bệnh, giữ gìn sức khỏe của nhân dân, nhất là những nơi bị lụt,
bão, hạn.
4. Giữ
vững trật tự trị an ở nông thôn:
5.
Tăng cường các công tác tổ chức và tư tưởng:
Tiếp tục củng
cố các tổ chức cấp xã như thường lệ để kiện toàn hơn nữa việc lãnh đạo các
mặt công tác ở nông thôn; chuẩn bị bầu cử Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành
chính các cấp để tăng cường chính quyền Nhà nước.
Tăng cường
giáo dục trong Đảng và trong quần chúng, làm cho cán bộ, đảng viên và nhân
dân nhận rõ nhiệm vụ cách mạng hiện nay, để tăng cường đoàn kết nhất trí,
nâng cao chí khí phấn đấu và tinh thần phấn khởi, hăng hái cách mạng của mọi
người đang hoàn thành tốt những nhiệm vụ trước mắt.
Từ nay đến
cuối năm, các công tác trên đây đều phải tiến hành song cần phải nắm vững
mấy công tác quan trọng nhất là:
- Hoàn thành
tốt công tác sửa sai và xúc tiến tổng kết cải cách ruộng đất.
- Đẩy mạnh các
công tác kinh tế:
·
Chống hạn, phòng lụt, đẩy mạnh sản xuất;
·
Củng cố và phát triển các tổ đổi công;
·
Điều chỉnh diện tích và sản lượng;
·
Thu mua nông sản và thu nợ ngân hàng.
- Tăng cường
giáo dục trong Đảng và trong nhân dân về nhiệm vụ của nông thôn sau cải cách
ruộng đất.
Thưa các vị đại biểu !
Trên đây,
chúng tôi đã báo cáo về tình hình và kết quả công tác sửa sai từ khi bắt đầu
đến nay, những vấn đề tồn tại cần được tiếp tục giải quyết và nhiệm vụ công
tác trước mắt của chúng ta ở nông thôn.
Những kết quả
đạt được của công tác sửa sai có một tác dụng quan trọng trong việc hoàn
thành tốt công tác cải cách ruộng đất ở miền Bắc. Qua công tác sửa sai,
chúng ta càng nhận rõ những thắng lợi của cải cách ruộng đất, đồng thời cũng
nhận rõ thêm những sai lầm của cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, song
thắng lợi của cải cách ruộng đất là căn bản.
Hiện nay công tác sửa
sai sắp kết thúc, tình hình nông thôn đang đi tới căn bản ổn định. Trong
điều kiện thuận lợi ấy chúng ta sẽ đưa nông thôn tiến dần lên con đường làm
ăn có tổ chức, nhằm phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của nhân dân.
Tuy nhiên trước yêu cầu mới của nhiệm vụ cách mạng, chúng ta còn gặp nhiều
khó khăn: có những khó khăn tất nhiên do sự phát triển của nông thôn sau cải
cách ruộng đất, trong quá trình chuyển từ nền sản xuất cá thể sang sản xuất
tập thể. Nhưng mặt khác, có những khó khăn do hậu quả của những sai lầm
trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức chưa được thanh toán hết, của
những vấn đề tồn tại sau công tác sửa sai chưa được giải quyết xong xuôi.
Chúng ta không chủ quan
tự mãn với kết quả đã đạt được của công tác sửa sai, trái lại cần nhận rõ
những khó khăn, phức tạp của tình hình nông thôn để ra sức động viên cán bộ
và nhân dân tiếp tục nỗ lực phấn đấu đặng khắc phục mọi khó khăn, bắt tay
thực hiện những nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang của giai đoạn mới.