LỊCH SỬ QUỐC HỘI VIỆT NAM (1976 - 1992)


I- BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI KHOÁ VII, QUỐC HỘI BẦU
CÁC CƠ QUAN VÀ CHỨC DANH LÃNH ĐẠO BỘ MÁY NHÀ NƯỚC
 

Mặc dù nhiệm kỳ Quốc hội khóa VI phải kéo dài so với quy định của Hiến pháp 1980, nhưng theo luật định, “Hai tháng trước khi Quốc hội hết nhiệm kỳ phải bầu xong Quốc hội khóa mới”. Do vậy, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa VI đã thông qua nghị quyết quy định một số điểm về việc thi hành Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó có quy định việc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa VII sẽ tiến hành vào ngày chủ nhật 26-4-1981. Và Quốc hội khoá VI sẽ tiếp tục nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá VII họp kỳ đầu tiên.

Để cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội bảo đảm dân chủ và đúng quy định của pháp luật, ngày 12-1-1981, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về việc lãnh đạo cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá VII, nhằm phát huy quyền làm chủ xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động, củng cố và tăng cường sức mạnh của Nhà nước. Theo tinh thần của nghị quyết, Quốc hội khoá VII cần được cấu tạo về thành phần thích đáng để đảm đương chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất và đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn 5 năm (1981-1985); đồng thời phải phản ánh được khối đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, dựa trên cơ sở liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh đạo.

Về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội, theo Nghị quyết của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IV và Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác tổ chức, “người được giới thiệu bầu vào Quốc hội phải là những người trung thành với Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, được nhân dân tín nhiệm, có ý thức tôn trọng pháp luật và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, có uy tín và tác dụng động viên quần chúng và thật sự có năng lực hoàn thành nhiệm vụ đại biểu[1]

Để giúp các cấp ủy đảng lãnh đạo việc chuẩn bị và tổ chức cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá VII, Bộ Chính trị quyết định thành lập Ban Chỉ đạo bầu cử Trung ương gồm 14 đại biểu.

-Trưởng ban: Trường Chinh

-Phó Trưởng ban: Trần Quốc Hoàn, Hoàng Quốc Việt và Xuân Thủy.

Ban Chỉ đạo bầu cử Trung ương có nhiệm vụ nghiên cứu, đề ra kế hoạch cụ thể về công tác chuẩn bị và tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội trình Bộ Chính trị quyết định; giúp Ban Bí thư triệu tập những hội nghị cần thiết để truyền đạt quyết định của Bộ Chính trị và Ban Bí thư về việc chuẩn bị và tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội khoá VII.

Thi hành nghị quyết của Bộ Chính trị, ngay từ tháng 3-1981, công tác tuyên truyền, vận động nhân dân tích cực giới thiệu người ra ứng cử được triển khai trong cả nước. Để bảo đảm an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng đã xây dựng kế hoạch cụ thể, phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, ủy ban nhân dân và các lực lượng dân quân tự vệ và công an địa phương triển khai công tác bảo vệ cuộc bầu cử.

Xác định cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá VII có quan hệ đến việc củng cố và tăng cường Nhà nước chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, do vậy các cấp ủy đảng và chính quyền đã khéo léo kết hợp công tác thường xuyên với công tác chuẩn bị tổ chức bầu cử. Các cơ quan báo chí, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình đều xem công tác bầu cử là nhiệm vụ trọng tâm, nên đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền để cử tri nhận thức đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình trong việc giới thiệu ứng cử viên và tổ chức hội nghị hiệp thương để lựa chọn những người đủ năng lực tham gia vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.

1. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội ngày 26-4-1981

Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa VII được tổ chức đúng ngày chủ nhật 26-4-1981. Cả nước có 40 tỉnh, thành phố và đặc khu được chia thành 93 đơn vị bầu cử. Đây là sự kiện chính trị quan trọng của đất nước sau khi Hiến pháp mới 1980 được ban hành. Cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa VII được tiến hành trong tình hình kinh tế - xã hội và đời sống của nhân dân đang có nhiều khó khăn. Vì vậy, theo Chỉ thị số 102-CT/TW, ngày 17-1-1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng: “Một mặt, phải kết hợp với đợt sinh hoạt thảo luận Hiến pháp, tuyên truyền Hiến pháp và Luật bầu cử, làm cho mọi người hiểu và thi hành Hiến pháp ngay trong cuộc bầu cử này, bảo đảm dân chủ thực sự từ khi chuẩn bị đến khi bỏ phiếu bầu, hết sức tránh hình thức, mệnh lệnh, gò ép. Mặt khác, kết hợp với động viên thi đua, ra sức phấn đấu khắc phục các hiện tượng tiêu cực, đẩy mạnh sản xuất, phân phối lưu thông, cố gắng giảm bớt khó khăn về đời sống, tạo không khí phấn khởi trong quần chúng khi tiến hành bầu cử”[2]

Quán triệt sâu sắc Chỉ thị của Ban Bí thư, cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa VII đã tiến hành dân chủ và đúng Luật bầu cử đại biểu Quốc hội của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc và các nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín đã được tôn trọng. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã làm tốt việc hiệp thương với các chính đảng, các đoàn thể nhân dân để giới thiệu danh sách những người ra ứng cử. Danh sách cử tri ở tất cả các địa phương đều bảo đảm đúng theo luật định.

Ngày chủ nhật 26-4-1981, từ thành thị đến nông thôn, từ vùng rừng núi đến biên giới, hải đảo, cử tri đi bầu với tư thế của người làm chủ tập thể, với ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các khu vực bỏ phiếu được bố trí ở những địa điểm thuận lợi cho việc đi lại của cử tri. Các phòng bỏ phiếu được trang hoàng đẹp và trang nghiêm, nơi viết phiếu bầu kín đáo. Cuộc bầu cử được tiến hành trật tự kể cả các vùng biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc.

Bình luận về diễn biến cuộc bầu cử, báo Ruđê Pravô (Tiệp Khắc) số ra ngày 26-4-1981 viết: Cuộc bầu cử ngày 26-4 ở Việt Nam khẳng định rằng, nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục đi theo con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự thống nhất và đoàn kết xung quanh Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố quyết định những thành tích trong chiến đấu và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân Việt Nam. Cuộc bầu cử ngày 26-4 với sự tham gia của hàng triệu người trong cả nước là biểu hiện sự thống nhất đó. Cuộc bầu cử đã chứng tỏ, nhân dân Việt Nam một lần nữa khẳng định lòng tin của mình đối với những người được Mặt trận

Tổ quốc giới thiệu để đứng ra quản lý công việc của Nhà nước.

Ở tất cả các địa phương trong cả nước, tỷ lệ cử tri đi bầu so với số cử tri ghi trong danh sách đạt 97,96%; nơi đạt tỷ lệ cao nhất là tỉnh Hà Nam Ninh 99,49%; nơi đạt tỷ lệ thấp nhất là tỉnh Đồng Tháp 95,34%; thành phố Hà Nội đạt 99,33%; thành phố Hồ Chí Minh đạt 97,69%. Ở Tây Nguyên, tỉnh Đắk Lắk đạt 98,58%; tỉnh Gia Lai - Kon Tum đạt 98,45%. Ở địa phương nào cũng có một số xã, phường, có nơi cả huyện đạt 100% số cử tri đi bầu.

Trong số 614 người ứng cử đại biểu Quốc hội tại 93 đơn vị bầu cử, có 496 người trúng cử. Những người trúng cử đều được trên quá nửa số phiếu hợp lệ và nhiều người đạt số phiếu bầu cao. Không có đơn vị nào phải bầu thêm hoặc bầu lại. Việc kiểm phiếu ở các tổ bầu cử, việc lập biên bản ghi kết quả bầu cử ở 93 đơn vị, việc tổng kết cuộc bầu cử ở Trung ương đều tiến hành đúng theo luật định. Để thuận lợi cho công việc, Hội đồng bầu cử đã tổ chức hai địa điểm tiếp nhận và kiểm tra biên bản bầu cử, đó là Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Qua kiểm tra, Hội đồng bầu cử đã xác nhận các biên bản bầu cử đều chính xác, đúng pháp luật.

Ngày 18-5-1981, Hội đồng bầu cử Trung ương đã ra thông cáo về kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa VII.

Tổng số đại biểu trúng cử là 496, trong đó thành phố Hà Nội có 31 đại biểu; thành phố Hồ Chí Minh có 35 đại biểu; thành phố Hải Phòng có 13 đại biểu; tỉnh Hà Tuyên có 7 đại biểu; tỉnh Cao Bằng có 5 đại biểu; tỉnh Lạng Sơn có 5 đại biểu; tỉnh Lai Châu có 4 đại biểu; tỉnh Hoàng Liên Sơn có 7 đại biểu; tỉnh Bắc Thái có 8 đại biểu; tỉnh Sơn La có 4 đại biểu; tỉnh Vĩnh Phú có 13 đại biểu; tỉnh Hà Bắc có 15 đại biểu; tỉnh Quảng Ninh có 8 đại biểu; tỉnh Hà Sơn Bình có 15 đại biểu; tỉnh Hải Hưng có 20 đại biểu; tỉnh Thái Bình có 15 đại biểu; tỉnh Hà Nam Ninh có 26 đại biểu; tỉnh Thanh Hóa có 22 đại biểu; tỉnh Nghệ Tĩnh có 27 đại biểu; tỉnh Bình Trị Thiên có 19 đại biểu; tỉnh Quảng Nam -Đà Nẵng có 15 đại biểu; tỉnh Nghĩa Bình có 18 đại biểu; tỉnh Phú Khánh có 11 đại biểu; tỉnh Thuận Hải có 9 đại biểu; tỉnh Gia Lai - Kon Tum có 6 đại biểu; tỉnh Đắk Lắk có 5 đại biểu; tỉnh Lâm Đồng có 4 đại biểu; tỉnh Sông Bé có 6 đại biểu; tỉnh Tây Ninh có 6 đại biểu; tỉnh Đồng Nai có 13 đại biểu; tỉnh Long An có 8 đại biểu; tỉnh Đồng Tháp có 10 đại biểu; tỉnh An Giang có 14 đại biểu; tỉnh Tiền Giang có 11 đại biểu; tỉnh Bến Tre có 9 đại biểu; tỉnh Cửu Long có 13 đại biểu; tỉnh Hậu Giang có 19 đại biểu; tỉnh Kiên Giang có 8 đại biểu; tỉnh Minh Hải có 10 đại biểu; đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo có 2 đại biểu.

Trong số 496 đại biểu trúng cử: công nhân 20,16%; nông dân 18,64%; quân nhân cách mạng 9,87%; cán bộ chính trị 24,39%; trí thức xã hội chủ nghĩa 22,17%; đại biểu là nữ 21,77%; đại biểu là dân tộc thiểu số 14,91%.

Thắng lợi to lớn của cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa VII đã khẳng định, mặc dù đang gặp nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống, nhưng đồng bào, chiến sĩ và cán bộ trong cả nước đã thực hiện quyền làm chủ tập thể qua lá phiếu của mình theo đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sáng suốt lựa chọn được những đại biểu xứng đáng bầu vào cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thành phần của 496 đại biểu được bầu vào Quốc hội khóa VII đã phản ánh khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, dựa trên cơ sở liên minh công nông vững chắc. Việc lựa chọn người đại diện của nhân dân qua sự giới thiệu của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã bảo đảm đại biểu Quốc hội được bầu đều là những người có đầy đủ ý thức, trách nhiệm, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân lao động, thi hành đúng Hiến pháp và thực hiện tốt các nhiệm vụ của Quốc hội. Đây là một hình ảnh đẹp, biểu thị sự đoàn kết nhất trí của toàn dân Việt Nam quyết tâm khắc phục khó khăn, xây dựng thành công một nước Việt Nam hoà bình, độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa.

2. Quốc hội khóa Vii bầu các cơ quan và các chức danh lãnh đạo bộ máy nhà nước

Ngày 25-6-1981, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội khóa VII đã họp phiên khai mạc tại Thủ đô Hà Nội. Trong diễn văn khai mạc kỳ họp, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Trường Chinh đã nhấn mạnh: Quốc hội khoá VI đã thông qua Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước. Kế tục sự nghiệp của Quốc hội khoá trước, Quốc hội khoá VII có nhiệm vụ trọng đại là giám sát việc thi hành Hiến pháp mới, động viên nhân dân ta sử dụng Hiến pháp như một vũ khí sắc bén để tăng cường Nhà nước chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Thực hiện chức năng của cơ quan lập pháp, Quốc hội có nhiệm vụ ban hành các luật để cụ thể hóa Hiến pháp, từng bước xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh tạo điều kiện để Nhà nước thực hiện việc quản lý mọi mặt hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội theo đúng Hiến pháp và pháp luật.

Tiếp đó, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã đọc diễn văn, khẳng định: Quốc hội khoá VI đã làm xong một nhiệm vụ trọng đại là xây dựng và thông qua Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Sự ra đời của Hiến pháp mới là một sự kiện lớn, đánh dấu một bước phát triển quan trọng của cách mạng nước ta. Hiến pháp mới thể chế hoá đường lối của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới do Đại hội lần thứ IV của Đảng đề ra và là vũ khí sắc bén để toàn dân ta tiếp tục cuộc đấu tranh nhằm bảo vệ, củng cố vững chắc độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên Tổ quốc ta. Vì vậy, “Quốc hội khoá VII có nhiệm vụ phát huy đầy đủ vai trò cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nhân dân trong việc củng cố và hoàn thiện chế độ làm chủ tập thể, thi hành Hiến pháp mới và đưa những chế định của Hiến pháp vào cuộc sống hiện thực của xã hội”[3]

Báo cáo những nét nổi bật về tình hình trong nước, tình hình quốc tế và chính sách đối nội, đối ngoại của Đảng và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Tổng Bí thư nêu rõ: Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa triển khai trong cả nước với biết bao công việc mới mẻ và phức tạp. Sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta phải vượt qua nhiều khó khăn trở ngại do các thế lực thù địch vẫn đang theo đuổi âm mưu xâm lược và thường xuyên phá hoại chúng ta. Trong thời gian sắp tới, phát huy những thuận lợi, khai thác tốt tiềm năng, khắc phục khó khăn trước mắt, nhất định chúng ta sẽ tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng Việt Nam vững vàng tiến bước trên con đường độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội... Khẩu hiệu hành động của chúng ta hiện nay là: “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”. Thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, Đảng Cộng sản Việt Nam quyết một lòng một dạ vì Tổ quốc, vì nhân dân mà hy sinh chiến đấu, xứng đáng với lòng tin cậy của đồng bào cả nước. Chúng ta tin tưởng rằng, Quốc hội khoá VII sẽ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, đoàn kết, động viên các tầng lớp nhân dân xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới.

Ngày 25-6-1981, Phó Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội Xuân Thuỷ báo cáo trước Quốc hội kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá VII. Theo báo cáo, ngày chủ nhật 26-4-1981, từ thành thị đến nông thôn, từ các vùng rừng núi và biên giới đến hải đảo xa xôi, đồng bào các dân tộc trong cả nước với tư thế của người làm chủ tập thể, với ý thức trách nhiệm đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước đã hăng hái đi bầu cử đông vui trong không khí ngày hội.

Căn cứ biên bản tổng kết cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá VII của Hội đồng bầu cử, sau khi nghe báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kết quả cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khoá VII, theo đề nghị của Ủy ban thẩm tra tư cách đại biểu, Quốc hội khoá VII đã thông qua nghị quyết xác nhận tư cách đại biểu của 496 đại biểu Quốc hội trúng cử trong cuộc bầu cử ngày 26-4-1981.

Thực hiện quy định của Hiến pháp về kiện toàn tổ chức, cải tiến hoạt động của cơ quan nhà nước, ngày 4-7-1981, Quốc hội khoá VII đã tiến hành bầu các vị lãnh đạo cao cấp của Nhà nước và thành lập các cơ quan cấp cao của Nhà nước.

Chủ tịch và Phó Chủ tịch hội đồng nhà nước

Chủ tịch: Trường Chinh

Phó Chủ tịch: Nguyễn Hữu Thọ

                    Lê Thanh Nghị

                    Chu Huy Mân

Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hội đồng Nhà nước: Xuân Thủy

Ủy viên Hội đồng Nhà nước: Nguyễn Đức Thuận

                                            Nguyễn Thị Định

                                            Ngô Duy Đông

                                            Lê Thanh Đạo

                                            Y Ngông Niêk Đăm

                                            Đàm Quang Trung

                                            Nguyễn Thành Lê

Chủ tịch và Phó Chủ tịch Quốc hội

Chủ tịch Quốc hội: Nguyễn Hữu Thọ

Phó Chủ tịch Quốc hội:  Xuân Thủy

                                    Nghiêm Xuân Yêm

                                    Nguyễn Xiển

                                    Y Pah (Y Một)

                                    Cầm Ngoan

                                    Huỳnh Cương

                                    Hòa thượng Thích Thế Long

                                    Linh mục Võ Thành Trinh

                                    Phan Anh

Chủ tịch và Phó Chủ tịch hội động bộ trưởng

Chủ tịch:                Phạm Văn Đồng

Phó Chủ tịch:          Tố Hữu

Phạm Hùng

Võ Nguyên Giáp

Huỳnh Tấn Phát

Võ Chí Công

Đỗ Mười

Nguyễn Lam

Trần Quỳnh

Tổng Thư ký Hội đồng Bộ trưởng:  Đặng Thí

Bộ trưởng các bộ, chủ nhiệm các ủy ban nhà nước
và thủ trưởng các cơ quan ngang bộ

Bộ trưởng Bộ Nội vụ: Phạm Hùng

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng: Văn Tiến Dũng

Bộ trưởng Bộ Ngoại giao: Nguyễn Cơ Thạch

Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước: Nguyễn Lam

Bộ trưởng Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch nhà nước: Vũ Đại

Chủ nhiệm Ủy ban Xây dựng cơ bản nhà nước: Huỳnh Tấn Phát

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật nhà nước: Lê Khắc

Chủ nhiệm Ủy ban Thanh tra của Chính phủ: Trần Nam Trung

Chủ nhiệm Ủy ban Dân tộc của Chính phủ: Hoàng Văn Kiểu

Chủ nhiệm Ủy ban Vật giá nhà nước: Đoàn Trọng Truyến

Bộ trưởng Bộ Tài chính: Hoàng Anh

Tổng Giám đốc Ngân hàng nhà nước: Nguyễn Duy Gia

Bộ trưởng Bộ Vật tư: Trần Sâm

Bộ trưởng Bộ Lao động: Đào Thiện Thi

Bộ trưởng Bộ Xây dựng: Đồng Sỹ Nguyên

Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải: Đinh Đức Thiện

Bộ trưởng Bộ Cơ khí và Luyện kim: Nguyễn Văn Kha

Bộ trưởng Bộ Điện lực: Phạm Khai

Bộ trưởng Bộ Mỏ và Than: Nguyễn Chân

Bộ trưởng Bộ Công nghiệp nhẹ: Trần Hữu Dư

Bộ trưởng Bộ Công nghiệp thực phẩm: Vũ Tuân

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp: Nguyễn Ngọc Trìu

Bộ trưởng Bộ Lâm nghiệp: Phan Xuân Đợt

Bộ trưởng Bộ Thủy lợi: Nguyễn Cảnh Dinh

Bộ trưởng Bộ Thủy sản: Nguyễn Tiến Trịnh

Bộ trưởng Bộ Lương thực: La Lâm Gia

Bộ trưởng Bộ Nội thương: Trần Phương

Bộ trưởng Bộ Ngoại thương: Lê Khắc

Bộ trưởng Bộ Văn hóa: Nguyễn Văn Hiếu

Bộ trưởng Bộ Y tế: Vũ Văn Cẩn

Bộ trưởng Bộ Giáo dục: Nguyễn Thị Bình

Bộ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp: Nguyễn Đình Tứ

Bộ trưởng Bộ Thương binh và Xã hội: Dương Quốc Chính

Bộ trưởng Bộ Tư pháp: Phan Hiền

Chủ nhiệm Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng: Đặng Thí

 

Hội đồng Quốc phòng

Chủ tịch: Trường Chinh

Phó Chủ tịch: Phạm Văn Đồng

Ủy viên:    Phạm Hùng

                Văn Tiến Dũng

                Tố Hữu

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao: Phạm Hưng

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Trần Lê

 

Quốc hội cũng đã thảo luận và ban hành Nghị quyết về việc thành lập Hội đồng Dân tộc và các ủy ban thường trực của Quốc hội, bao gồm:

1. Hội đồng Dân tộc do ông Hoàng Trường Minh làm Chủ tịch và 34 ủy viên.

2. Ủy ban Pháp luật do ông Trần Quang Huy làm Chủ nhiệm và 16 ủy viên.

3. Ủy ban Kinh tế, Kế hoạch và Ngân sách do ông Đào Văn Tập làm Chủ nhiệm và 44 ủy viên.

4. Ủy ban Văn hóa và Giáo dục do ông Trần Độ làm Chủ nhiệm và 28 ủy viên.

5. Ủy ban Khoa học và Kỹ thuật do ông Bùi Thanh Khiết làm Chủ nhiệm[4] và 24 ủy viên.

6. Ủy ban Y tế và Xã hội do bà Nguyễn Thị Định làm Chủ nhiệm [5] và 22 ủy viên.

7. Ủy ban Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng do ông Vũ Quang làm Chủ nhiệm và 23 ủy viên.

8. Ủy ban Đối ngoại do ông Nguyễn Thành Lê làm Chủ nhiệm [6] và 11 ủy viên.

    

           

Thay mặt các vị được bầu vào các cơ quan lãnh đạo cấp cao của Nhà nước, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Trường Chinh đã phát biểu và hứa trước Quốc hội nguyện hết lòng, hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ nhân dân, hoàn thành những trọng trách mà Quốc hội giao phó, cùng toàn dân phấn đấu thực hiện điều mong muốn cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là “xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất độc lập, dân chủ và giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào phong trào cách mạng thế giới”.

Với nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của những người đứng đầu cơ quan cao nhất của Nhà nước, Chủ tịch Trường Chinh xác định: Để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cùng với Quốc hội, Hội đồng Nhà nước sẽ tích cực đẩy mạnh hoạt động giám sát việc thi hành Hiến pháp và pháp luật, nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, tăng cường Nhà nước về mọi mặt, làm cho Nhà nước có đủ hiệu lực để quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

Thay mặt Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng đã bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc về sự tín nhiệm của Quốc hội đối với Hội đồng Bộ trưởng và thể hiện quyết tâm phấn đấu kiên cường, bền bỉ, từng bước khắc phục những yếu kém trong công tác quản lý, nhằm hoàn thành những chức năng và nhiệm vụ theo tinh thần của Hiến pháp Luật tổ chức Hội đồng Bộ trưởng đã được Quốc hội biểu quyết thông qua.

Vui mừng, phấn khởi hướng về kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá VII, đoàn đại biểu nhân dân Thủ đô Hà Nội do Giáo sư, Bác sĩ Phạm Khắc Quảng dẫn đầu đã đến chào mừng thành công của kỳ họp thứ nhất. Với niềm tự hào, tin tưởng về Quốc hội, về Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng và các cơ quan lãnh đạo cao cấp của Nhà nước vừa được Quốc hội khóa VII bầu ra; tự hào về nhân dân Việt Nam anh hùng và sáng tạo, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng, nhân dân Thủ đô hứa “nguyện ra sức thi đua hoàn thành nhiệm vụ chính trị của Thủ đô, ra sức khắc phục khó khăn, phát huy mọi tiềm năng, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết của Bộ Chính trị về công tác cải tiến phân phối và lưu thông, đẩy mạnh sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân, tăng cường quản lý các mặt của thành phố, đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng nếp sống mới và con người mới, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước”[7].

Ngày 4-7-1981, kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khoá VII đã thành công tốt đẹp. Theo đúng quy định của Hiến pháp mới và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, Quốc hội đã bầu ra các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các vị lãnh đạo cao cấp của Nhà nước. Bộ máy nhà nước mới do Quốc hội khóa VII bầu ra đảm nhận trọng trách quản lý và điều hành đất nước, tổ chức nhân dân ra sức thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm, quyết tâm hoàn thành thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Phát biểu tại phiên bế mạc, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Hữu Thọ đã nhấn mạnh về trách nhiệm của đại biểu Quốc hội đối với việc củng cố Nhà nước chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, thi hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật, làm cho hoạt động của Quốc hội ngày càng thiết thực, hiệu quả.

Trước sự quan tâm và tin tưởng của đồng bào và chiến sĩ cả nước đối với hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội đã hứa “sẽ ra sức làm việc, không phụ lòng tin cậy của đồng bào và chiến sĩ”. Chủ tịch Quốc hội cũng đã động viên các đại biểu Quốc hội, trong bất cứ cương vị công tác nào, hoàn cảnh nào, cũng phải ra sức làm tròn nhiệm vụ đại biểu của mình, động viên nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần đưa sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đến những thắng lợi mới.              

 

 

 

 

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 42, tr. 15.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t. 42, tr. 45-46.
[3]  Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Văn kiện Quốc hội toàn tập, Sđd, t. 6, q. 1, tr. 6.
[4]
Từ tháng 6-1984 do ông Trần Đức Lương làm Chủ nhiệm.
[5]  Từ tháng 6-1982 do ông Dương Quốc Chính làm Chủ nhiệm.
[6] Từ tháng 6-1982 do ông Vũ Quang làm Chủ nhiệm.
[7]  Lời chào mừng của đoàn đại biểu nhân dân Thủ đô Hà Nội về thắng lợi của kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa VII tại Hội trường Ba Đình, ngày 4-7-1981.