TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP CHIỀU 24/6: QUỐC HỘI THẢO LUẬN VỀ DỰ ÁN LUẬT THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG (SỬA ĐỔI)

24/06/2024

Chiều 24/6, tiếp tục Chương trình Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV - tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Quốc hội thảo luận ở hội trường về dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi). Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành phiên họp.

TỔNG THUẬT TRỰC TIẾP SÁNG 24/6: QUỐC HỘI THẢO LUẬN VỀ DỰ ÁN LUẬT PHÒNG, CHỐNG MUA BÁN NGƯỜI (SỬA ĐỔI)

Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV

Trước đó, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022; Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022.

Tiếp theo, Quốc hội sẽ Thảo luận ở hội trường về dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi); Bộ trưởng Bộ Tài chính giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu.

Phiên thảo luận được truyền hình trực tiếp trên Truyền hình Quốc hội để cử tri và Nhân dân theo dõi.

14h00: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành phiên họp

Điều hành nội dung phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, chiều nay, Quốc hội sẽ tiến hành biểu quyết thông qua Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022 và thảo luận ở hội trường về dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi). Phiên họp được được truyền hình trực tiếp trên Truyền hình Quốc hội Việt Nam để cử tri và Nhân dân theo dõi.

Tiếp theo, Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022.

14h01: Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022.

Trình bày bày Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Lê Quang Mạnh cho biết, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội đã thảo luận tại Tổ và Hội trường về quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022. Các đại biểu Quốc hội cơ bản thống nhất nội dung Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, Ngân sách, báo cáo của Chính phủ và Kiểm toán nhà nước; các ý kiến góp ý cụ thể chủ yếu liên quan đến việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương tài chính không nghiêm; nhiều tồn tại, hạn chế kéo dài nhiều năm trong lập, chấp hành dự toán, quyết toán NSNN cần chấn chỉnh, sớm khắc phục. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo tiếp thu, giải trình đầy đủ các ý kiến của đại biểu Quốc hội và thể hiện tại Báo cáo số 882/BC-UBTVQH15 ngày 24/6/2024.

Về lập, chấp hành dự toán, quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí ý kiến của các đại biểu Quốc hội. Theo đó, đã chỉ đạo thể hiện kết quả đạt được và các tồn tại hạn chế tại Điều 2 dự thảo Nghị quyết phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước (NSNN) năm 2022 và giao Chính phủ chỉ đạo các Bộ, ngành, địa phương làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm, kiểm điểm, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm và tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong lập, chấp hành dự toán, quyết toán NSNN tại các khoản 2, 3, 4, 5, 6 và 7 Điều 4 dự thảo Nghị quyết. 

Về ý kiến Chính phủ tiếp tục chậm gửi tài liệu quyết toán NSNN năm 2022, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí với ý kiến của các đại biểu Quốc hội đã nêu. Đề nghị Chính phủ tiếp tục chấn chỉnh tăng cường kỷ luật, kỷ cương công tác quyết toán NSNN tại các Bộ, cơ quan trung ương, địa phương và khẩn trương đề xuất sửa đổi Luật NSNN hoặc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật NSNN và các Luật có liên quan để sớm thực hiện rút ngắn quy trình, thời gian quyết toán NSNN hằng năm theo yêu cầu tại các Nghị quyết của Quốc hội. Các yêu cầu này đã được thể hiện tại các điểm a, h khoản 2 và khoản 7 Điều 4 dự thảo Nghị quyết.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí với ý kiến của đại biểu Quốc hội về thông tin, số liệu quyết toán thu, chi, bội chi NSNN năm 2022 thay đổi khá lớn so với số liệu Chính phủ đã báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ 5 và khi trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội về phương án phân bổ, sử dụng nguồn tăng thu, tiết kiệm chi thường xuyên NSTW năm 2022 và nguồn tăng thu NSTW năm 2021. Đồng thời chưa báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung dự toán NSNN năm 2022 đầy đủ số tăng thu NSNN, phương án phân bổ, sử dụng số tăng thu NSTW để bảo đảm  phù hợp với các quy định của Luật NSNN.

Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội xem xét phê chuẩn bổ sung 3.102 tỷ đồng số tăng thu vào dự toán thu NSNN năm 2022 để thực hiện đúng quy định của Luật NSNN. Đề nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Tài chính và các Bộ, ngành, địa phương rút kinh nghiệm và chịu trách nhiệm trong việc tổng hợp thông tin, số liệu quyết toán thu, chi NSNN năm 2022 chênh lệch lớn so với thông tin, số liệu đã báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và chưa kịp thời báo cáo để phê chuẩn bổ sung dự toán số tăng thu và phương án, phân bổ số tăng thu NSTW năm 2022 theo đúng quy định, không để lặp lại tình trạng thường xuyên cập nhật, điều chỉnh số liệu sau thời gian chỉnh lý quyết toán như hiện nay. 

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo tiếp thu nêu rõ tồn tại, hạn chế như ý kiến đại biểu nêu tại Điều 2 và các biện pháp chấn chỉnh, khắc phục tại các điểm a, h khoản 2 và khoản 6 Điều 4 dự thảo Nghị quyết.

Về dự thảo Nghị quyết phê chuẩn quyết toán NSNN năm 2022, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo: (1) Bổ sung Điều 1. Bổ sung dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2022 số tăng thu NSNN tại dự thảo Nghị quyết đối với số tăng thu NSNN chưa được phê chuẩn bổ sung tại Nghị quyết số 40/2023/NQ-UBTVQH15; và (2) Điều chỉnh tên Nghị quyết thành Nghị quyết Bổ sung dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2022 và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022.

14h12: Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022

Quốc hội tiến hành biểu quyết thông qua Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022 bằng hình thức biểu quyết điện tử. Kết quả biểu quyết cho thấy, có 459 đại biểu biểu quyết tán thành (chiếm 94,25%). Như vậy, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước năm 2022 với tỷ lệ tán thành cao.

14h14: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải điều hành nội dung thảo luận về dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi)

Điều hành nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, Quốc hội đã thảo luận tại Tổ về dự án Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi), có 63 lượt ý kiến phát biểu, cơ bản các ý kiến đồng tình với sự cần thiết sửa đổi Luật nhằm thể chế hóa chủ trương của Đảng, khắc phục các bất cập, hạn chế của Luật hiện hành đối với từng nhóm chính sách và các điều khoản cụ thể trong dự thảo Luật. Các vị ĐBQH đã quan tâm đóng góp nhiều ý kiến. Tổng Thư ký Quốc hội đã tổng hợp ý kiến các vị ĐBQH, gửi trên mạng thông tin của Quốc hội. 

Để tiếp tục hoàn thiện dự thảo Luật, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải đề nghị các vị ĐBQH tập trung thảo luận vào các nội dung đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, Ngân sách, đồng thời lưu ý các nội dung về phạm vi, đối tượng, tính khả thi, thực tế và cụ thể hóa các điều, khoản quy định trong dự thảo Luật; nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế; thuế suất, mức doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng; kê khai khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào, kê khai khấu trừ bổ sung quy định về việc hoàn thuế…

Phó Chủ tịch Quốc hội cho biết, Đoàn Chủ tịch sẽ mời Bộ trưởng Bộ Tài chính giải trình, tiếp thu, làm rõ các vấn đề ĐBQH đã nêu.

Tiếp theo, Phó Chủ tịch Quốc hội mời đại biểu đầu tiên phát biểu là đại biểu Trần Thị Thanh Hương - Đoàn ĐBQH tỉnh An Giang.

14h16: Đại biểu Trần Thị Thanh Hương - Đoàn ĐBQH tỉnh An Giang: Cần thiết rà soát, sửa đổi quy định về đối tượng không chịu thuế

Thảo luận tại phiên họp, đại biểu Trần Thị Thanh Hương nêu rõ, qua một thời gian dài thực hiện, Luật Thuế giá trị gia tăng đã bộc lộ những bất cập, hạn chế nhất định với nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tế, vì vậy, việc sửa đổi Luật là cần thiết nhằm hoàn thiện chính sách phù hợp với mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,  Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến năm 2030 và Đề án định hướng Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV. Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi) có tác động trực tiếp đến quyền, lợi ích của các tổ chức, cá nhân, người dân và doanh nghiệp. 

Liên quan tới đối tượng không chịu thuế, Điều 5 dự thảo Luật đã sửa đổi, bổ sung một số quy định liên quan đến đối tượng không chịu thuế và nhiều nội dung sửa đổi nhằm đảm bảo nhất quán các thuật ngữ, khái niệm quy định tại các luật chuyên ngành như Luật Trồng trọt, Luật Chăn nuôi, Luật Thủy sản, Luật Các tổ chức tín dụng,... Theo đại biểu, việc rà soát, sửa đổi quy định về đối tượng không chịu thuế theo hướng loại bỏ hoặc bổ sung một số loại hàng hóa, dịch vụ so với quy định hiện hành để phù hợp với thực tiễn là rất cần thiết.

Tuy nhiên, bên cạnh các trường hợp không phải nộp thuế giá trị gia tăng đầu ra nhưng được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào thì hiện còn một số trường hợp khác như trường hợp các tổ chức, cá nhân chuyển nhượng dự án đầu tư để sản xuất, kinh doanh hàng hóa, hợp tác xã... Chính vì vậy, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo giải trình, làm rõ hơn cơ sở pháp lý và đánh giá tác động đối với việc xác định các trường hợp đã được quy định tại Nghị định số 209/2013/NĐ-CP mà không được tiếp tục cho phép khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào và đầu ra không phải tính thuế giá trị gia tăng như dự thảo Luật xác định.

14h21: Đại biểu Nguyễn Tâm Hùng - Đoàn ĐBQH tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu: Tránh hiểu lầm trong áp dụng các nội dung liên quan đến số thuế giá trị gia tăng không được khấu trừ, hoàn thuế với đối tượng không phải kê khai nộp thuế

Quan tâm đến nội dung về đối tượng không chịu thuế được quy định tại Điều 5 của dự thảo Luật, đại biểu Nguyễn Tâm Hùng đề nghị Cơ quan soạn thảo cân nhắc, xem xét tách nội dung cuối của điểm e khoản 26 của Điều này thành một khoản riêng. Theo đó chuyển nội dung quy định “Cơ sở kinh doanh hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng quy định tại Điều này không được khấu trừ, không được hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào, trừ trường hợp áp dụng mức thuế suất 0% quy định tại khoản 1 Điều 9 của Luật” này thành 1 khoản riêng là khoản 27 của Điều này để làm rõ nội dung và tránh hiểu lầm trong việc áp dụng các nội dung điều khoản của dự thảo Luật liên quan đến số thuế giá trị gia tăng không được khấu trừ và hoàn thuế với đối tượng không phải kê khai nộp thuế.

14h26: Đại biểu Trần Văn Tiến - Đoàn ĐBQH tỉnh Vĩnh Phúc

Phát biểu tại phiên họp, đại biểu Trần Văn Tiến bày tỏ thống nhất sự cần thiết sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng nhằm cụ thể hóa chủ trương của Đảng, đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục quản lý thuế và tạo môi trường pháp luật thống nhất, đồng bộ áp dụng trong nền kinh tế cũng như việc khắc phục những hạn chế bất cập của Luật Thuế giá trị gia tăng hiện hành.

Góp ý cụ thể về người nộp thuế (Điều 4), đại biểu Trần Văn Tiến cho biết, tại khoản 1, Điều 2 Luật Quản lý thuế quy định, người nộp thuế bao gồm: Tổ chức, hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế. Để đảm bảo tính thống nhất giữa Luật Thuế giá trị gia tăng và Luật Quản lý thuế, đại biểu đề nghị thay từ “Hộ” bằng cụm từ “hộ gia đình, hộ kinh doanh”. 

Về đối tượng không chịu thuế (Điều 5), đại biểu đề nghị làm rõ cá nhân, hộ gia đình, hộ kinh doanh khi mua các sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi… như quy định thì có thuộc đối tượng không chịu thuế không? Đồng thời làm rõ cơ sở pháp lý tại sao các đối tượng này khi mua các sản phẩm theo quy định tại khoản 1 không phải tính, nộp thuế giá trị gia tăng nhưng lại được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. 

Về thuế suất (Điều 9), tại điểm d khoản 2 về mức thuế suất 5%, quy định: Sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường, trừ các sản phẩm quy định tại khoản 1 Điều 5 của luật này.


Nhưng tại khoản 1 Điều 5 quy định về đối tượng không chịu thuế: Sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa qua chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt, bán ra và ở khâu nhập khẩu. Do đó, đại biểu đề nghị xem lại quy định tại khoản 2, Điều 9 đang có sự mâu thuẫn với quy định tại khoản 1 Điều 5 về mức thuế suất.

Về khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào (Điều 14), tại điểm c khoản 2 quy định: Đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, ngoài các điều kiện quy định tại điểm a và điểm b khoản này còn phải có: hợp đồng ký kết với bên nước ngoài về việc bán, gia công hàng hóa, cung ứng dịch vụ; hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ; chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt; tờ khai hải quan đối với hàng hóa xuất khẩu; phiếu đóng gói, vận đơn, chứng từ bảo hiểm hàng hóa (nếu có); trừ một số trường hợp đặc thù theo quy định của Chính phủ.

Đại biểu Trần Văn Tiến cho rằng quy định như vậy sẽ gây khó khăn cho người nộp thuế. Đại biểu đề nghị bỏ nội dung về chứng từ bảo hiểm hàng hóa.

14h31: Đại biểu Nguyễn Danh Tú - Đoàn ĐBQH tỉnh Kiên Giang: Cần đánh giá kỹ đối với việc chuyển đổi phân bón sang đối tượng chịu thuế suất 5%

Đại biểu Nguyễn Danh Tú cơ bản nhất trí với nhiều nội dung trong dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi). Bên cạnh đó, đại biểu có một số ý kiến đóng góp sau:

Về quy định mức thuế suất 5% áp dụng đối với phân bón, đại biểu Nguyễn Danh Tú nhận thấy dự thảo Luật lần này đã chuyển phân bón từ đối tượng không chịu thuế sang đối tượng chịu thuế suất 5%. Theo cơ quan soạn thảo, các doanh nghiệp sản xuất phân bón không được kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa, dịch vụ phục vụ sản xuất phân bón mà phải tính vào chi phí sản phẩm khiến giá thành sản phẩm tăng, lợi nhuận giảm, bất lợi cho việc cạnh tranh với phân bón nhập khẩu. 

Đại biểu Nguyễn Danh Tú nhận thấy việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho ngành sản xuất phân bón trong nước là vô cùng cần thiết và cần tiếp tục cân nhắc, nghiên cứu kỹ việc chuyển phân bón sang đối tượng chịu thuế suất 5%. Vì phân bón là một trong những hàng hóa đầu vào quan trọng của sản xuất nông nghiệp, là hàng hóa sử dụng thiết yếu, ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, sản xuất kinh doanh và đời sống người dân, đặc biệt là người nông dân sẽ chịu tác động lớn bởi quy định này.

Đại biểu Nguyễn Danh Tú đề nghị Ban soạn thảo tiếp tục cân nhắc, đánh giá tác động kỹ lưỡng nhiều mặt, đánh giá tác động từ phía các doanh nghiệp sản xuất phân bón cũng như đánh giá tác động từ phía người nông dân trực tiếp sử dụng phân bón trong sản xuất nông nghiệp.

Liên quan đến quy định máy móc, thiết bị chuyên dùng trong phục vụ sản xuất nông nghiệp, tàu khai thác thủy sản tại vùng khơi, vùng biển từ đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng sang đối tượng chịu thuế suất 5%. Đại biểu Nguyễn Danh Tú đề nghị Ban soạn thảo cân nhắc đánh giá tác động kỹ hơn, nhất là tác động đến việc đánh bắt thủy, hải sản xa bờ, tác động đến nông dân, ngư dân trong việc sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp, vươn khơi bám biển. 

14h37: Đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh - Đoàn ĐBQH tỉnh Khánh Hòa: Xác định rõ ràng tư cách pháp lý của người nộp thuế là cá nhân và pháp nhân

Trong dự án Luật đề cập về người nộp thuế quy định tại khoản 1, Điều 4 là tổ chức, hộ, cá nhân sản xuất, kinh doanh, nhập khẩu, mua bán hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh đề nghị xác định rõ ràng tư cách pháp lý của người nộp thuế là cá nhân và pháp nhân để đảm bảo về tư cách, về chủ thể pháp lý. Vì tổ chức nộp thuế phải là pháp nhân như công ty, hợp tác xã, các tổ chức kinh tế và các tổ chức khác có tư cách pháp nhân. 

Tổ chức không có tư cách pháp nhân hoặc là đơn vị phụ thuộc pháp nhân chịu trách nhiệm về tư cách cá nhân như doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh, hộ gia đình theo quy định tại Điều 101 về chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân và điều khác của Bộ Luật Dân sự năm 2015, Điều 188 về doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh nghiệp năm 2020 và các quy định liên quan của pháp luật.

Còn đối tượng không chịu thuế quy định tại Điều 5 về 26 nhóm đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng, đại biểu Đỗ Ngọc Thịnh đề nghị  bổ sung dịch vụ pháp lý sẽ không chịu thuế giá trị gia tăng.

14h42: Đại biểu Trần Anh Tuấn - Đoàn ĐBQH Tp. Hồ Chí Minh: Cân nhắc bổ sung một số nhóm đối tượng chịu thuế như dự thảo luật

Đại biểu Trần Anh Tuấn đánh giá cao bạn soạn thảo đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định công phu, theo lộ trình cải cách thuế quốc gia, tuy nhiên đại biểu đề nghị cân nhắc bổ sung một số nhóm đối tượng chịu thuế như dự thảo luật.

Theo đại biểu Trần Anh Tuấn, hiện nay chúng ta đang thực hiện Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội - tức là đang thực hiện chính sách tài khóa mở rộng theo hướng tiếp tục giảm thuế (giảm thuế 2% cho đến cuối năm 2024); tiếp tục sẽ có những biện pháp để kích cầu tiêu dùng và sản xuất đến cuối năm 2025, thì tốc độ tăng trưởng mới đảm bảo duy trì tốt. 

Việc sửa đổi luật đưa mức chịu thuế từ 0% lên 5% như dự thảo luật đối với một số mặt hàng là đầu vào của sản xuất, như vậy các doanh nghiệp sản xuất những mặt hàng này sẽ giảm sức cạnh tranh, gây áp lực lạm phát các mặt hàng tiêu dùng, ảnh hưởng đến cuộc sống người dân. Việc thiết kế hai chính sách này rất dễ gây xung đột chính sách khi thực hiện chính sách tài khóa mở rộng nhưng lại đưa đối tượng mới chịu thuế, sẽ làm giảm chính sách tài khóa mở rộng chúng ta đang thực hiện. 

Vì vậy, đại biểu Trần Anh Tuấn cho rằng, cần thiết kế chính sách theo lộ trình, nhất là đối với sản phẩm nông nghiệp cần tính toán lại chính sách thuế hợp lý, có thể đưa vào mức chịu thuế 0% thay vì 5% như dự thảo luật để doanh nghiệp được khấu trừ thuế, nhưng sản phẩm lương thực thực phẩm đầu ra không bị áp lực tăng giá, mà vẫn thực thi chính sách tài khóa mở rộng tốt hơn, hiệu lực, hiệu quả hơn. 

Ngoài ra, đại biểu cho rằng, trong dự thảo luật chưa thiết kế lộ trình áp dụng như thế nào; hơn nữa, từ nay đến cuối năm 2025 chúng ta cần tiếp tục thực hiện những chính sách tài khóa mở rộng, trong đó chính sách tài khóa còn dư địa rất nhiều. Do đó, cần thiết kế theo hướng giao Chính phủ đưa vào đối tượng chịu thuế đúng với lộ trình cải cách thuế nhưng cần có thời gian thực hiện phù hợp với điều kiện tình hình thực tế.

14h49: Đại biểu Phạm Văn Hòa - Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Tháp: Cân nhắc việc bổ sung một số hàng hóa nhập khẩu được miễn thuế

Đưa ra ý kiến tại phiên thảo luận, đại biểu Phạm Văn Hòa nhấn mạnh, Luật Thuế giá trị gia tăng được xây dựng vào năm 2008, tuy đã qua các lần sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn tồn tại những bất cập, hạn chế. Do đó, đại biểu nhất trí về sự cần thiết sửa đổi Luật này để giải quyết các bất cập trong thực tiễn cuộc sống và đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường đang phát triển. 

Về đối tượng chịu thuế, đại biểu cho rằng, liệt kê như dự thảo Luật gồm 26 mục là rất cụ thể, đảm bảo việc triển khai thực hiện. Trong đó, bổ sung quy định một số trường hợp hàng hoá nhập khẩu không phải chịu thuế. Về vấn đề này, đại biểu đề nghị cân nhắc vì hiện nay ở một số cửa khẩu, hằng ngày có từ 4-5 triệu đơn hàng qua biên giới nước ta được miễn thuế do giá trị mỗi loại hàng hoá có giá trị nhỏ. Nếu tính thuế thì mỗi gói hàng không đáng bao nhiêu tiền mà lại phải tốn nhân sự quản lý thu, chậm trễ thời gian. 

Tuy nhiên, nhìn nhận vấn đề ở khía cạnh khác, hiện nhiều nước trên thế giới đã bỏ quy định miễn thuế hàng hoá nhập khẩu có giá trị nhỏ để tạo bình đẳng cho hàng hoá sản xuất trong nước. Từ những phân tích trên, đại biểu đề nghị cần có cân nhắc về vấn đề này cho phù hợp thực tế.

Về kê khai khấu trừ bổ sung, đại biểu đồng ý quy định như dự thảo Luật. Tuy nhiên, theo đại biểu, nếu doanh nghiệp kê khai sai, trong đó có sử dụng hoá đơn bất hợp pháp để tăng số thuế khấu trừ, hoàn thuế thì đề nghị giữ như quy định hiện hành, là không cho phép bổ sung hồ sơ khai thuế sau khi đã có quyết định thanh tra, kiểm tra thuế. Như vậy sẽ mất hiệu lực công tác thanh tra và hậu kiểm, không phù hợp trong công tác quản lý thuế.

Liên quan đến điều kiện khấu trừ áp thuế suất 0%, đại biểu đồng ý việc bổ sung các quy định chặt chẽ hơn nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong quản lý hoàn thuế giá trị gia tăng, tránh tình trạng doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở của Luật để trục lợi, gây thất thoát ngân sách nhà nước. Do đó, đề nghị xác định kỹ các trường hợp đặc thù để quy định vào Luật, không nên giao Chính phủ quy định các vấn đề đã rõ.

14h56: Đại biểu Tô Ái Vang - Đoàn ĐBQH tỉnh Sóc Trăng: Xem xét sửa đổi Luật theo hướng phân bón thuộc đối tượng chịu thuế suất giá trị gia tăng 0%

Nhằm hoàn thiện dự án Luật, đại biểu Tô Ái Vang góp ý vào khoản 2 Điều 9 quy định mức thuế suất 5% áp dụng đối với 12 nhóm hàng hóa, dịch vụ, trong đó có phân bón. Qua các kỳ tiếp xúc cử tri của Đoàn ĐBQH tỉnh Sóc Trăng, các ĐBQH trong Đoàn đều tiếp nhận tâm tư, nguyện vọng và kiến nghị của cử tri liên quan đến chi phi đầu tư cho mỗi kỳ canh tác gồm giá phân bón, giá thuốc bảo vệ thực vật, giá xăng dầu, giá thuê nhân công, vận chuyển tăng gấp nhiều lần. Sự mâu thuẫn giữa giá nông sản và giá phân bón kéo dài thời gian qua vẫn luôn là vấn đề nóng của nông nghiệp Việt Nam. 

Do đó, đại biểu kiến nghị Quốc hội xem xét sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng theo hướng phân bón thuộc đối tượng chịu thuế suất giá trị gia tăng 0%. Nếu  Luật vẫn giữ 5% đối với mặt hàng phân bón thì nông dân phải bỏ ra khoảng 6 nghìn tỷ đồng. Còn nếu dự thảo Luật áp dụng thuế giá trị gia tăng 0% đối với mặt hàng phân bón thì khoảng 2 nghìn tỷ đồng thay vì được bổ sung vào nguồn thu NSNN thì nguồn này sẽ hỗ trợ lại cho doanh nghiệp và nông dân. Như vậy nông dân sẽ được giảm đáng kể chi phí đầu vào. Theo đại biểu Tô Ái Vang, Quốc hội và Chính phủ nên chọn cái được cho nông dân để thể hiện rõ các chính sách sẽ được luật hóa.

Đại biểu Tô Ái Vang cho rằng, Việt Nam là 1 trong 5 quốc gia chịu ảnh hưởng lớn nhất của biến đổi khí hậu. Theo xu thế và khuyến cáo, hướng đi tất yếu của nông nghiệp Việt Nam hiện nay là tăng cường sản xuất và sử dụng phân bón hữu cơ. Bên cạnh giá phân bón vô cơ diễn biến phức tạp, thị trường phân bón hữu cơ được dự đoán sẽ tăng trưởng với tốc độ kép. Vì vậy, đại biểu nhận thấy, nếu dự thảo Luật đưa mặt hàng phân bón là đối tượng chịu mức thuế suất 5% như dự kiến thì tăng áp lực cho nông dân trong điều kiện ngành nông nghiệp chịu nhiều tổn thương nhất.

15h02: Đại biểu Nguyễn Duy Thanh - Đoàn ĐBQH tỉnh Cà Mau phát biểu tranh luận

Tranh luận tại phiên họp, đại biểu Nguyễn Duy Thanh nêu rõ, việc đưa mặt hàng phân bón trở thành đối tượng chịu thuế là hoàn toàn phù hợp, giúp cho doanh nghiệp được khấu trừ đầu vào, tạo sự bình đẳng với phân bón nhập khẩu, qua đó giúp cho doanh nghiệp giảm giá bán cho nông dân, tăng thu nhập cho ngân sách nhà nước. Đại biểu cũng nêu rõ, hầu hết các nước trên thế giới đều coi phân bón là đối tượng chịu thuế như Nga, Trung Quốc, Thái Lan,...

15h03: Đại biểu Phạm Đức Ấn - Đoàn ĐBQH Tp. Hà Nội: Đề nghị xem xét, mở rộng quy định tại điểm h Điều 5

Đại biểu Phạm Đức Ấn bày tỏ sự nhất trí cao với mục đích, ý nghĩa và sự cần thiết ban hành cũng như tên gọi của dự thảo Luật. Quan tâm đến nội dung liên quan đến đối tượng chịu thuế tại Điều 5, cụ thể là điểm h  khoản 9 Điều 5 quy định đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng là bán tài sản bảo đảm của khoản nợ của tổ chức mà Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ do Chính phủ thành lập có chức năng mua, bán nợ để xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng Việt Nam.

Về nội dung này, đại biểu đề nghị Cơ quan soạn thảo xem xét, mở rộng theo hướng quy định đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng tại điểm này là bán tài sản đảm bảo của các tổ chức tín dụng. “Bởi vì khi đã phải bán tài sản đảm bảo thì có nghĩa là khách hàng vay đã rất khó khăn. Và trong trường hợp này, nếu có thuế giá trị gia tăng nữa thì lại thêm gánh nặng nợ cho họ. Nếu được miễn thuế giá trị gia tăng thì có khả năng họ còn để được một phần giá trị tài sản còn lại để phục vụ cho đời sống hoặc sản xuất kinh doanh trở lại”, đại biểu lý giải.  

Theo đại biểu, việc quy định như vậy là rất cần thiết. Bên cạnh đó, trong thực tế, quy định như vậy cũng không quá ảnh hưởng đối với việc thu thuế.

15h09: Đại biểu Khang Thị Mào - Đoàn ĐBQH tỉnh Yên Bái: Cân nhắc việc áp dụng mức thuế suất 5% đối với phân bón

Đại biểu Khang Thị Mào cho biết, qua nghiên cứu dự thảo Luật Thuế giá trị (sửa đổi) Chính phủ trình Quốc hội áp dụng mức thuế suất 5% đối với phân bón tại điểm b, khoản 2 Điều 9 với mục tiêu thúc đẩy sản xuất phân bón trong nước cạnh tranh với phân bón nhập khẩu. Theo quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng hiện hành, phân bón thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng, doanh nghiệp không được kê khai khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hóa dịch vụ bao gồm cả hoạt động đầu tư, mua sắm tài sản phục vụ cho hoạt động sản xuất phân bón mà phải tính vào chi phí sản phẩm khiến giá thành tăng, lợi nhuận giảm, bất lợi cho cạnh tranh với phân bón nhập khẩu; khó khăn về nguồn vốn liên doanh nghiệp không đủ chủ động trong đầu tư, mở rộng sản xuất 

Đại biểu Khang Thị Mào đề nghị Chính phủ xem xét chưa áp dụng đề xuất trên bởi:

Thứ nhất, bản chất thuế giá trị là thuế gián thu có tính trung lập, tính kinh tế cao thể hiện ở 02 khía cạnh: thuế giá trị gia tăng không chịu ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh của người nộp thuế, do vậy thuế giá trị gia tăng không phải là yếu tố của chi phí sản xuất, đơn thuần là khoản thu được cộng thêm vào giá bán của người cung cấp dịch vụ; thuế giá trị gia tăng không bị ảnh hưởng bởi quá trình tổ chức và phân chia quá trình sản xuất kinh doanh.

Thứ hai, theo quy định của Luật, giá của phân bón thuộc danh mục bình ổn giá , do đó cần đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, hài hào lợi ích giữa tổ chức, cá nhân kinh doanh hàng hóa dịch vụ với người tiêu dùng.

Theo đại biểu Khang Thị Mào, qua việc nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy, khi muốn ưu đãi đối với lĩnh vực nào đó sẽ có 02 phương án: đưa vào diện không chịu thuế hoặc áp dụng thuế 0%. Trong tình hình thị trường phân bón thế giới và trong nước tiếp tục tăng, đại biểu Khang Thị Mào đề nghị hết sức cân nhắc việc áp dụng mức thuế suất 5% đối với phân bón.

15h15: Đại biểu Trần Quốc Tuấn - Đoàn ĐBQH tỉnh Trà Vinh: Cần đánh giá kỹ về tác động của việc chuyển mặt hàng phân bón từ không chịu thuế sang đối tượng phải chịu thuế suất 5%

Tham gia góp ý kiến vào nội dung nêu tại điểm b, khoản 2, Điều 9 dự thảo Luật quy định mặt hàng “Phân bón” là đối tượng phải chịu thuế giá trị gia tăng với thuế suất 5% thay vì “mặt hàng phân bón không phải chịu thuế” như quy định hiện hành, đại biểu Trần Quốc Tuấn kiến nghị đến Quốc hội, Chính phủ 03 nội dung sau:

Thứ nhất: Cần có khảo sát, đánh giá kỹ và báo cáo đầy đủ hơn về tác động của việc chuyển mặt hàng phân bón, từ đối tượng không chịu thuế sang đối tượng phải chịu thuế với mức thuế suất là 5% ở cả 02 góc độ. Một là, nhìn từ góc độ tác động đến sự phát triển của ngành sản xuất, kinh doanh phân bón, phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hai là, góc độ thứ hai là tác động từ việc tăng giá của sản phẩm phân bón, ảnh hưởng đến thu nhập của người nông dân ra sao, hiệu quả cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp thế nào để Quốc hội xem xét, cân nhắc một cách thận trọng trước khi biểu quyết thông qua.

Thứ hai: Không tăng thuế suất thuế giá trị gia tăng đối với mặt hàng phân bón, nhưng bổ sung doanh nghiệp sản xuất phân bón trong nước vào khoản 1 Điều 5 của dự thảo Luật là đối tượng được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.

Thứ ba: Để khuyến khích phát triển nền nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp xanh, sạch, Luật cần phải phân loại “mặt hàng phân bón” ra thành 02 nhóm hàng hoá. Đó là "phân bón hoá học" và "phân bón hữu cơ", trong đó đặc biệt ưu tiên miễn thuế giá trị gia tăng đối với mặt hàng phân bón hữu cơ như nhiều quốc gia đang làm. Để từ đó định hướng và chuyển dần thói quen sử dụng phân bón hoá học sang sử dụng phân bón hữu cơ; đồng thời chuyển dần nền sản xuất nông nghiệp của Việt Nam sang nền nông nghiệp xanh, nông nghiệp sạch theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. 

15h22: Đại biểu Trần Thị Thu Hằng - Đoàn ĐBQH tỉnh Đắk Nông

Góp ý dự thảo Luật Thuế giá trị gia tăng (sửa đổi), đại biểu Trần Thị Thu Hằng đề nghị bổ sung 1 điều về giải thích từ ngữ để tạo sự thống nhất chung, thuận lợi cho việc thực thi áp dụng các điều khoản của luật như Công trình phục vụ công cộng, Phiếu đóng gói, Sơ chế thông thường…

Bên cạnh đó, đại biểu đề nghị rà soát lại nội dung các quy định trong dự thảo, không nên quy định quá chi tiết dẫn đến thiếu sót và có thể phát sinh các nội dung mới trong quá trình thực thi.

Đại biểu Trần Thị Thu Hằng cũng đề nghị rà soát lại quy định “Doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã mua sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường khi bán cho doanh nghiệp, hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã khác thì không phải tính, nộp thuế giá trị gia tăng nhưng được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.

Đối với ngưỡng doanh thu không chịu thuế theo khoản 25 Điều 5 của Dự thảo quy định mức doanh thu hàng năm dưới mức do Chính phủ quy định. Đại biểu đề nghị nghiên cứu quy định rõ mức doanh thu tối thiểu hàng năm là bao nhiêu và giao cho Chính phủ quy định từ mức tối thiểu đó trở lên; trong đó, lưu ý việc điều chỉnh mức doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ của cá nhân, hộ kinh doanh phải phù hợp với mức biến động của giá cả, tình hình sản xuất kinh doanh.  

Về Thuế suất tại Điều 9 của dự thảo, đại biểu tỉnh Đắk Nông cho rằng, để xác định được sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường là rất khó vì trong luật không định nghĩa đối với hai hình thức này. Vì vậy, cần quy định các sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường ở khâu kinh doanh thương mại để làm cơ sở áp dụng trong thực tiễn.

15h26: Đại biểu Cầm Thị Mẫn - Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hóa: Đề nghị thay đổi tên gọi Điều 4 của dự thảo luật

Qua nghiên cứu Điều 4 của dự thảo luật, đại biểu Cầm Thị Mẫn cho biết, tên gọi của Điều 4 về người nộp thuế chưa thống nhất, chưa phản ánh đúng nội hàm của điều luật. Cụ thể, theo tên gọi của điều luật cho thấy, chủ thể nộp thuế là người nhưng tại các khoản trong điều luật thì người nộp thuế còn bao gồm cả tổ chức, hộ, cá nhân sản xuất kinh doanh, trong đó điều luật này không giải thích hoặc quy định về người nộp thuế như cách viết của luật hiện hành, gây nên sự không thống nhất giữa nội hàm và tên gọi của điều luật. Do vậy, đại biểu cho rằng thuật ngữ người nộp thuế cần được sửa đổi cho phù hợp; đề nghị thay đổi tên gọi của Điều 4 từ người nộp thuế bằng chủ thể nộp thuế để bảo đảm bao quát được các trường hợp là cá nhân, tổ chức, vừa phản ánh được toàn diện, thống nhất giữa nội hàm với tên gọi của điều luật.

Cũng tại Điều 4 dự thảo luật bổ sung đối tượng hộ sản xuất kinh doanh, tuy nhiên theo quy định của Bộ Luật Dân sự và một số luật có sử dụng thuật ngữ tương tự như Luật Lâm nghiệp, Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, Luật Quản lý thuế, Luật Đất đai đều sử dụng cụm từ hộ gia đình; đồng thời khi tra cứu khái niệm hộ sản xuất, hộ kinh doanh, tại Luật Quản lý thuế đề cập đến thuật ngữ hộ gia đình, hộ kinh doanh nhưng không có thuật ngữ hộ sản xuất… Đại biểu Cầm Thị Mẫn đề nghị sử dụng thống nhất thuật ngữ hộ gia đình, hộ kinh doanh để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật.

Về đối tượng không chịu thuế, Điều 5 dự thảo luật quy định 26 nhóm đối tượng không chịu thuế; quy định chi tiết, đầy đủ, chặt chẽ đối với hầu hết các nhóm đối tượng được miễn thuế giá trị gia tăng, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát để chuẩn hóa, thống nhất giữa Luật Thuế giá trị gia tăng với các luật liên quan. Theo đó, nên rà soát, sắp xếp các lĩnh vực ngành nghề miễn thuế giá trị gia tăng một cách hợp lý, có thứ tự ưu tiên, dễ áp dụng trong thực tiễn.

Trong đó, tại khoản 10 Điều 5 quy định về dịch vụ chăm sóc người cao tuổi, người khuyết tật, bao gồm cả chăm sóc y tế, dinh dưỡng và tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao, giải trí, vật lý trị liệu, phục hồi chức năng cho người cao tuổi, người khuyết tật không phải chịu thuế giá trị gia tăng. Đại biểu hoàn toàn thống nhất về đối tượng, nhưng về mặt kỹ thuật cho thấy, quy định mang tính liệt kê nhưng chưa khoa học, chưa hợp lý và còn có sự trùng lặp. Đại biểu đề nghị rà soát để viết lại cho ngắn gọn, khái quát không trùng lặp các ý cần viết trong cùng một một khoản của điều luật; đồng thời tách khoản 10 thành hai khoản khác nhau để quy định cho từng loại đối tượng dịch vụ dành cho người và dịch vụ cho vật nuôi riêng biệt.

15h31: Đại biểu Vương Quốc Thắng - Đoàn ĐBQH tỉnh Quảng Nam: Rà soát kỹ quy định về giá tính thuế

Phát biểu tại phiên thảo luận, đại biểu Vương Quốc Thắng quan tâm tới một số nội dung tại Điều 7 của dự thảo Luật. Theo đó, tại điểm c khoản 1 Điều 7 quy định: "Đối với hàng hoá, dịch vụ dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho là giá tính thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này". Tuy nhiên, quan điểm, chủ trương chung của Đảng và Nhà nước là khuyến khích doanh nghiệp, doanh nhân thực hiện trách nhiệm xã hội; đồng thời, pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp quy định tại khoản 7 Điều 4 Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp 2008 cũng đã coi chi phí ủng hộ địa phương, đoàn thể, tổ chức xã hội, chi từ thiện… là chi phí được miễn thuế.

Chủ tịch nước Tô Lâm tại phiên thảo luận

Trong trường hợp doanh nghiệp cho biếu tặng hàng hoá, dịch vụ vì mục đích từ thiện, doanh nghiệp không phát sinh doanh thu; nếu phải nộp thuế giá trị gia tăng cho lượng hàng hoá, dịch vụ này, doanh nghiệp sẽ phải sử dụng tiền từ nguồn thu khác, như vậy là bất hợp lý. Do đó, cần được cân nhắc, bổ sung theo hướng hàng hoá dịch vụ này với mục đích từ thiện thì giá tính thuế được xác định bằng không.

Về vấn đề thuế suất, đại biểu cho rằng, khoản 5 Điều 9 quy định chưa rõ nghĩa, sẽ có nhiều cách hiểu khác nhau, trùng lắp với sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường với mức thuế suất 5% tại điểm d khoản 2. 

Do đó, đại biểu đề nghị Ban soạn thảo điều chỉnh quy định này để thống nhất trong cách hiểu là thức ăn chăn nuôi, dược liệu được sản xuất, chế biến từ sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường thì áp dụng thuế suất giá trị gia tăng 5%; sản xuất chế biến từ các sản phẩm khác áp dụng thuế suất 10%.

15h36: Đại biểu Hoàng Thị Thanh Thúy - Đoàn ĐBQH tỉnh Tây Ninh: Đồng tình mặt hàng phân bón thuộc đối tượng áp dụng mức thuế suất GTGT 0%

Góp ý về mức doanh thu bán hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT được quy định tại Điều 5 của dự thảo Luật, đại biểu Hoàng Thị Thanh Thúy cho rằng việc dự thảo Luật giao cho Chính phủ quy định mức doanh thu để thu thuế là không phù hợp, đề nghị cần quy định rõ trong Luật. Vì khoản 2 Điều 55 Hiến pháp quy định: “Các khoản thu, chi ngân sách nhà nước phải được dự toán và do luật định”. Việc xác định doanh thu để thu thuế GTGT sẽ có sự tác động đến hoạt động thu ngân sách nhà nước trung ương và cả ngân sách địa phương. 

Về thuế suất thuế GTGT, đại biểu cho biết, khoản 2 Điều 9 dự thảo Luật bổ sung quy định áp dụng thuế suất 5% đối với nhóm hàng hóa là phân bón, các loại máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, trong khi Luật hiện hành quy định đối tượng này thuộc diện không chịu thuế. Đại biểu Hoàng Thanh Thúy đề nghị là nên quy định mặt hàng phân bón là đối tượng áp dụng thuế suất 0% nhằm giảm giá thành sản phẩm hơn nữa cũng như khấu trừ thuế GTGT đầu vào. Quy định như vậy càng có lợi cho doanh nghiệp sản xuất nông nghiệp và doanh nghiệp sản xuất phân bón.

Tương tự như vậy, tại khoản 1 Điều 5 của dự thảo Luật quy định “1. Sản phẩm cây trồng, rừng trồng, chăn nuôi, thủy sản nuôi trồng, đánh bắt chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường của tổ chức, cá nhân tự sản xuất, đánh bắt bán ra và ở khâu nhập khẩu” là đối tượng không chịu thuế. Đại biểu Hoàng Thanh Thúy cũng đề nghị chuyển nhóm đối tượng này sang đối tượng chịu thuế suất giá trị gia tăng 0%.

15h42: Đại biểu Hoàng Văn Cường - Đoàn ĐBQH Tp. Hà Nội: Cân nhắc việc tăng thu ngân sách bằng điều chỉnh thuế giá trị gia tăng

Thảo luận tại phiên họp, đại biểu Hoàng Văn Cường bày tỏ đồng tình với việc sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng để phù hợp với những thay đổi trong tình hình mới. Đại biểu cho rằng, việc sửa đổi luật lần này không nên đặt mục tiêu tăng thu ngân sách nhà nước. Bởi theo thống kê, việc thu thuế giá trị tăng luôn chiếm tỉ trọng khá cao, tỉ lệ huy động từ thuế giá trị gia tăng thuộc nhóm tỷ lệ cao so với các nước trong khu vực. Bên cạnh đó, chỉ số đánh giá mức độ huy động thuế là năng suất thu và hiệu suất thu thuế giá trị gia tăng ở Việt Nam đều cao, thể hiện việc thu thuế giá trị gia tăng rất hiệu quả. 

Theo đại biểu, thuế giá trị gia tăng là thuế áp dụng đối với người tiêu dùng, không phải đối với người sản xuất. Tuy nhiên, khi giá hàng hoá tăng lên, mức tiêu thụ hàng hoá sẽ giảm, từ đó ảnh hưởng đến người sản xuất, ảnh hưởng đến người sản xuất sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khu vực sản xuất. Đại biểu nêu rõ, để phục hồi kinh tế, trong 02 năm qua đã phải giảm thuế mới kích thích được sản xuất. Do đó, đại biểu đề nghị không nên tăng thu ngân sách bằng việc điều chỉnh thuế giá trị gia tăng. Để tăng thu ngân sách, đại biểu cho rằng có thể nghiên cứu thuế tài sản và thuế bảo vệ môi trường.

15h47: Đại biểu Bùi Hoài Sơn - Đoàn ĐBQH Tp. Hà Nội: Công cụ thuế đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển văn hóa

Đại biểu Bùi Hoài Sơn cho rằng, công cụ thuế đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển văn hóa. Trên thế giới, có nhiều quốc gia đã sử dụng công cụ thuế như một trong những chính sách quan trọng để đầu tư, hỗ trợ cho phát triển văn hóa. Ở nước ta, qua nhiều hội nghị, hội thảo, nghiên cứu đã chỉ ra điểm nghẽn về ưu đãi thuế đối với lĩnh vực văn hóa. Chính vì vậy, đại biểu cho rằng, việc sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng lần này là cơ hội rất tốt để chúng ta tháo gỡ một phần điểm nghẽn này, giúp tạo ra sự hấp dẫn, huy động được nguồn lực cho phát triển văn hóa. 

Đại biểu Bùi Hoài Sơn đánh giá cao nỗ lực của Cơ quan soạn thảo trong việc có thêm một số ưu đãi về thuế đối với hoạt động văn hóa. Tuy nhiên, đại biểu còn một số băn khoăn về một số vấn đề. “Cụ thể, tại khoản 2 Điều 9 về đối tượng áp dụng mức thuế suất 5 %, tôi đề nghị giữ nguyên quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008 đối với nhóm nội dung là hoạt động văn hóa, triển lãm thể dục thể thao, biểu diễn nghệ thuật, sản xuất phim nhập khẩu, phát hành và chiếu phim.”, đại biểu đề nghị. 

Theo đại biểu, việc tăng thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động văn hóa, thể thao sẽ hạn chế khả năng tiếp cận của nhân dân đối với các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ mang tính công cộng này. 

Bên cạnh đó, tại khoản 1 Điều 9 về đối tượng áp dụng mức thuế suất 0%, đại biểu Bùi Hoài Sơn đề nghị bổ sung nội dung về dịch vụ văn hóa, giải trí, chuyển quyền sử dụng quyền tác giả, quyền liên quan để sử dụng ngoài phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Bởi theo đại biểu, việc áp thuế suất 10% đối với dịch vụ văn hóa xuất khẩu là không phù hợp với thông lệ quốc tế, làm giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm văn hóa Việt Nam, bảo hộ ngược sản phẩm văn hóa nước ngoài.

Cùng với đó cũng tại khoản 1 Điều 9, đại biểu đề nghị bổ sung nội dung về hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho tổ chức nước ngoài sản xuất phim sử dụng bối cảnh quay tại Việt Nam, các dịch vụ sản xuất phim do tổ chức nước ngoài, tổ chức Việt Nam cung cấp theo quy định của Chính phủ. Đại biểu nhấn mạnh, việc không có chính sách ưu đãi thuế đối với các đơn vị làm phim nước ngoài là chưa phù hợp...

Ngoài ra, tại khoản 12 Điều 5, đại biểu đề nghị bổ sung nội dung không thuộc đối tượng áp dụng thuế giá trị gia tăng là hàng hóa, dịch vụ cung cấp cho cơ sở văn hóa không vì lợi nhuận phục vụ hoạt động văn hóa, nghệ thuật sử dụng 100% từ nguồn đóng góp của nhân dân, vốn viện trợ nhân đạo theo quy định của Chính phủ. 

Đối với điểm e, khoản 26 Điều 5 về đối tượng không chịu thuế với hàng hóa nhập khẩu có quy định miễn thuế cho di vật, cổ vật do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền nhập khẩu theo quy định của pháp luật, đại biểu đề nghị áp dụng chung cho mọi đối tượng chứ không chỉ riêng cho các cơ quan Nhà nước, để khắc phục tình trạng như việc mua ấn Hoàng đế chi bảo và khuyến khích huy động nguồn lực xã hội trong việc hồi hương cổ vật. 

Cuối cùng, tại điểm g khoản 2 Điều 14 về khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào, đại biểu Bùi Hoài Sơn thì đề nghị bổ sung nội dung về khấu trừ thuế giá trị gia tăng cho nhà ở, trạm y tế và công trình văn hóa, thể thao cho người lao động làm việc trong các khu công nghiệp và khu kinh tế.

15h51: Đại biểu Trần Văn Lâm - Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Giang: Không nên chuyển các mặt hàng phân bón, vật tư, máy móc phục vụ nông nghiệp sang đối tượng chịu thuế giá trị tăng

Đại biểu Trần Văn Lâm bày tỏ sự đồng ý với Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội và ý kiến của các đại biểu Quốc hội đã phát biểu trước đối với những băn khoăn trong việc đề xuất của Chính phủ chuyển các mặt hàng, vật tư, máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ sản xuất nông nghiệp từ đối tượng không chịu thuế suất sang đối tượng chịu thuế suất 5%. 

Theo đại biểu Trần Văn Lâm, hiện nay, các mặt hàng nói trên không phải đối tượng chịu thuế giá trị tăng nên các doanh nghiệp sản xuất không được hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào của các loại sản phẩm trên. Đại biểu cho rằng, nếu tăng thuế giá trị gia tăng đối với các sản phẩm trên là tăng chi phí đầu vào cho nông nghiệp, nếu áp dụng mức thuế 5% người chịu thuế này sẽ là người nông dân. Còn về phía doanh nghiệp, đại biểu cho rằng chính sách của nhà nước cần hỗ trợ để doanh nghiệp và sản phẩm cạnh tranh bình đẳng trên sân nhà với các nhà sản xuất và hàng ngoại nhập. Đại biểu Trần Văn Lâm nhấn mạnh, không nên chuyển các mặt hàng phân bón, vật tư, máy móc, thiết bị chuyên dùng, tàu đánh bắt xa bờ sang đối tượng chịu thuế giá trị tăng, nếu chuyển nên đưa vào đối tượng chịu thuế suất 0%.

15h56: Đại biểu Trịnh Xuân An - Đoàn ĐBQH tỉnh Đồng Nai: Cần đánh giá kỹ lưỡng, cần thiết xây dựng các tiêu chí để xác định mặt hàng nào không chịu thuế

Phát biểu tại hội trường, đại biểu Trịnh Xuân An cho rằng, đây là dự án Luật thuế liên quan đến 25% thu ngân sách, liên quan đến mọi đối tượng, do đó cần có một sắc thuế trung lập, khách quan để xây dựng nền tảng tài chính vững mạnh. Đại biểu nhận thấy, việc Chính phủ đề xuất mức thuế 5% đối với mặt hàng phân bón và các mặt hàng nông nghiệp là có cơ sở. Chúng ta cần đánh giá nhiều chiều và phân tích thấu đáo.

Đại biểu Trịnh Xuân An đề nghị làm rõ giá phân bón tăng thời gian qua có phải do tăng thuế không? Đại biểu cho rằng, điều này không đúng. Phân bón tăng là do chi phí đầu vào, do vật tư… Do đó, nếu tăng mức thuế mặt hàng này lên 5% thì cần phải đánh giá hết sức kỹ lưỡng. “Nếu doanh nghiệp được khấu trừ 5% này thì họ được đầu tư mở rộng thêm. Giá phân bón trong nước có thể cạnh tranh được với giá nhập khẩu thì người dân được lợi chứ không phải bị thiệt”, đại biểu phân tích.

Để hỗ trợ cho người dân và doanh nghiệp thì cần nhiều phương án, chính sách khác nhau, đại biểu Trịnh Xuân An đề nghị cần nghiên cứu, đánh giá kỹ lưỡng vấn đề này. Đại biểu không đồng tình với ý kiến đề nghị khấu trừ hoặc đưa về mức thuế suất 0%. “Chúng ta cần lựa chọn một giải pháp phù hợp. Đề nghị Chính phủ cần thiết xây dựng các tiêu chí, xác định rõ xem mặt hàng nào là không chịu thuế, mặt hàng nào là 0%, mặt hàng nào là 10%”, đại biểu Trịnh Xuân An nêu rõ.

16h01: Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc giải trình, làm rõ một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu

Giải trình một số vấn đề đại biểu Quốc hội nêu, Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết, thuế VAT có phạm vi điều tiết rất rộng và đánh vào hầu hết các loại hàng hóa và dịch vụ nên sẽ liên quan đến lợi ích của nhiều nhà sản xuất, kinh doanh. Vì vậy, quy định trong dự thảo cần làm thế nào để đảm bảo cho sản xuất phát triển, thương mại phát triển, từ đó quy định thống nhất theo đúng Chiến lược thuế theo nghị quyết của Đảng, nên ban soạn thảo nghiên cứu hết sức chặt chẽ và đánh giá tác động của từng vấn đề liên quan đến chính sách thuế VAT, bao quát được các nguồn thu, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Bộ trưởng cho biết, theo chiến lược đến năm 2030 phải huy động vào ngân sách 16-17% GDP, trong đó thuế và phí là 14-15% GDP, tỷ lệ thu nội địa phải đạt được 86- 87%. Qua ý kiến của đại biểu Quốc hội, cơ quan soạn thảo xin tiếp thu, lắng nghe ý kiến và đánh giá lại tác động của từng gói chính sách và những vấn đề đang còn tranh luận để đến kỳ họp sau đảm bảo thống nhất khi ban hành.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc cũng giải trình một số vấn đề có nhiều ý kiến đại biểu nêu liên quan đến quy định giao Chính phủ quy định hàng hóa, dịch vụ hộ gia đình, cá nhân không chịu thuế VAT. Bộ trưởng cho biết, quy định trong luật phải đảm bảo phù hợp với xu thế của thế giới và thuế thật sự là công cụ để bảo vệ nền kinh tế và phải thích ứng với quá trình lãnh đạo điều hành và quản lý nền kinh tế, đặc biệt là kinh tế vĩ mô. Do vậy, việc phân cấp cho Chính phủ là hết sức quan trọng và đảm bảo sự linh hoạt và hiệu quả trong quá trình điều hành.

Về thuế đối với cổ vật, Bộ trưởng cho biết, cổ vật do nhà nước nhập khẩu không chịu thuế, nhưng tổ chức, cá nhân nhập về để kinh doanh thì phải chịu thuế. Đối với hàng hóa phân bón, Bộ trưởng cho biết, cơ quan soạn thảo sẽ đánh giá lại tác động để trình Quốc hội tại kỳ họp cuối năm nay.

16h11: Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải kết luận nội dung thảo luận

Phát biểu kết luận phiên họp, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải cho biết, các đại biểu Quốc hội nhất trí về sự cần thiết sửa đổi Luật Thuế giá trị gia tăng để khắc phục những bất cập, hạn chế của luật hiện hành, thể chế hóa chủ trương của Đảng về việc sửa đổi, bổ sung các luật về thuế, phí theo nguyên tắc thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, gắn với cơ cấu lại nguồn thu, mở rộng cơ sở thuế, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thuế và áp dụng mức thuế suất hợp lý. 

Phó Chủ tịch Quốc hội cũng cho biết, các đại biểu đã tham gia nhiều ý kiến xác đáng vào nhiều điều khoản cụ thể, theo đó, cần nghiên cứu kỹ lưỡng để hoàn thiện dự thảo Luật, rà soát tên để dự thảo luật bám sát mục tiêu đặt ra trong các Nghị quyết của Đảng, Chiến lược cải cách hệ thống thuế, lộ trình tiến tới áp dụng một loại thuế suất, tính khả thi thực tế và cụ thể của các điều khoản quy định trong dự thảo luật, các nội dung giao Chính phủ, các bộ quy định, sự phù hợp, tương thích của dự thảo Luật với các luật có liên quan.

Các đại biểu cũng tham gia nhiều ý kiến về các nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, đối tượng chịu thuế suất 0%, người nộp thuế, giá tính thuế, thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng, các mức thuế suất, mức doanh thu bán hàng hóa dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng, kê khai khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào, quy định về hoàn thuế và điều khoản thi hành.

Phó Chủ tịch Quốc hội cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ chỉ đạo cơ quan thẩm tra phối hợp chặt chẽ với cơ quan soạn thảo và các cơ quan có liên quan, nghiên cứu các ý kiến phát biểu tại hội trường và các ý kiến phát biểu tại tổ để tiếp thu, hoàn thiện dự án Luật trình Quốc hội xem xét thông qua tại Kỳ họp thứ 8.

Cổng Thông tin điện tử Quốc hội