CẦN QUY ĐỊNH RÕ RÀNG VIỆC LẤY Ý KIẾN ĐỐI TƯỢNG TÁC ĐỘNG TRONG QUÁ TRÌNH LẬP QUY HOẠCH TÀI NGUYÊN NƯỚC

05/06/2023

Chiều 5/6, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 5, Quốc hội tiến hành thảo luận tại Tổ về dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi). Thảo luận tại Tổ 13, các đại biểu tán thành cao với sự cần thiết sửa đổi toàn diện Luật Tài nguyên nước, đồng thời, đề nghị dự thảo cần có quy định đủ rõ về việc lấy ý kiến những đối tượng tác động trong quá trình lập quy hoạch tài nguyên nước, quy hoạch lưu vực sông làm thay đổi quyền sử dụng nguồn nước,...

THẢO LUẬN TỔ 13: LUẬT HÓA CÁC QUY ĐỊNH PHÙ HỢP, ĐẢM BẢO XỬ LÝ HIỆU QUẢ NỢ XẤU CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Toàn cảnh Phiên thảo luận tại Tổ 13

Dự thảo Luật Tài nguyên nước sửa đổi gồm 83 điều và được bố cục thành 10 chương. So với Luật Tài nguyên nước năm 2012, dự thảo Luật không tăng về số chương (trong đó giữ nguyên 9 điều; sửa đổi, bổ sung 59 điều; bổ sung mới 15 điều) và bãi bỏ 13 điều.

Về phạm vi điều chỉnh, quy định tại dự  thảo luật về cơ bản giữ nguyên như Luật 2012. Theo đó, luật này quy định về quản lý, bảo vệ khai thác, sử dụng tài nguyên nước, phòng, chống và khắc phục hậu quả tác hại do nước gây ra  thuộc lãnh thổ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Nước dưới đất và nước biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước khoáng, nước nóng thiên nhiên không thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật này.

Thảo luận tại Tổ 13, các đại biểu cơ bản tán thành với sự cần thiết sửa đổi Luật Tài nguyên nước. Theo đó, các ý kiến cho rằng, việc sửa đổi nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, bảo đảm minh bạch để có khả năng khai thác tối đa nguồn lực tài nguyên, phân bổ hợp lý và sử dụng có hiệu quả; bảo đảm an ninh nguồn nước quốc gia; chú trọng phòng ngừa, kiểm soát và phục hồi các nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt và ô nhiễm; phân định rõ trách nhiệm quản lý nguồn nước và trách nhiệm quản lý công trình khai thác nước cả trung ương và địa phương khắc phục các chồng chéo, xung đột pháp luật.

Đồng thời, hướng tới quản lý tài nguyên nước trên nền tảng công nghệ số, thống nhất về cơ sở dữ liệu, xây dựng bộ công cụ hỗ trợ ra quyết định theo thời gian thực, giảm thiểu nhân lực quản lý, vận hành, chi phí đầu tư của nhà nước; giảm điều kiện kinh doanh cho tổ chức, cá nhân.

Cũng theo các đại biểu, Hồ sơ dự án Luật được chuẩn bị công phu, lấy ý kiến rộng rãi của các đối tượng chịu tác động, các cơ quan quản lý có liên quan; tham khảo pháp luật và kinh nghiệm quốc tế trong quản lý tài nguyên nước; … Tuy nhiên, để hoàn thiện dự thảo các đại biểu lưu ý, cơ quan chủ trì soạn thảo cần rà soát, nghiên cứu hoàn thiện 1 số nội dung cụ thể đảm bảo tính khả thi, hiệu quả khi dự luật được thông qua.

Đại biểu Nguyễn Thị Hà, Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh

Góp ý vào dự thảo, đại biểu Nguyễn Thị Hà, Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Ninh cho rằng, việc lấy ý kiến đối với cộng đồng dân cư là rất cần thiết. Song quy định như dự thảo sẽ dẫn đến sự chồng chéo với pháp luật về đánh giá tác động môi trường. Theo quy định tại Điều 33, Điều 28 Luật Bảo vệ môi trường, các dự án xây dựng công trình khai thác, sử dụng tài nguyên nước sẽ phải lập báo cáo đánh giá tác động môi trường và lấy ý kiến cộng đồng dân cư, cá nhân, tổ chức liên quan. Như vậy, quy định của dự thảo sẽ dẫn đến nguy cơ dự án phải thực hiện hai lần công tác lấy ý kiến, hoặc thực hiện một lần nhưng lại phải có hai bộ hồ sơ, gây tốn kém không cần thiết về thời gian, chi phí và thủ tục hành chính. Mặt khác, cũng cần quy định chi tiết như thế nào là dự án có ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh tế - xã hội. Do đó, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo cân nhắc bỏ quy định này. Trong trường hợp cần thiết cần làm rõ hoặc sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về bảo vệ môi trường cho phù hợp.

Về nguyên tắc và căn cứ lập quy hoạch tài nguyên nước, quy hoạch lưu vực sông, đại biểu tỉnh Bắc Ninh cho rằng, quy hoạch tài nguyên nước, quy hoạch lưu vực sông có ảnh hưởng rất lớn đến quyền và nghĩa vụ của các cá nhân, tổ chức có sử dụng nước trong phạm vi quy hoạch. Các hoạt động sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt đang diễn ra bình thường có thể sẽ phải chấm dứt hoặc điều chỉnh với chi phí lớn chỉ vì sự thay đổi của quy hoạch tài nguyên nước, quy hoạch lưu vực sông. Những nguy cơ thay đổi đột xuất này làm giảm tính ổn định của môi trường đầu tư kinh doanh tại Việt Nam, làm giảm khả năng thu hút đầu tư và phát triển kinh tế của đất nước.

Trong khi đó, dự thảo lại chưa có quy định rõ ràng về việc lấy ý kiến những đối tượng chịu sự tác động trong quá trình lập quy hoạch. Do đó, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo bổ sung quy định: Trong trường hợp quy hoạch tài nguyên nước, quy hoạch lưu vực sông làm thay đổi quyền sử dụng nguồn nước thì cần phải lấy ý kiến của đối tượng đang khai thác, sử dụng nguồn nước đó.

Đại biểu Lưu Bá Mạc, Đoàn ĐBQH tỉnh Lạng Sơn

Tán thành với sự cần thiết ban hành Luật Tài nguyên nước (sửa đổi), tham gia thảo luận tại Tổ, đại biểu Lưu Bá Mạc, Đoàn ĐBQH tỉnh Lạng Sơn nhấn mạnh, việc sửa đổi Luật giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý tài nguyên nước trong bối cảnh cần tăng cường bảo đảm an ninh nguồn nước, khắc phục những bất cập, tồn tại trong công tác quản lý tài nguyên nước và yêu cầu hội nhập quốc tế trong quản lý tài nguyên nước.

Theo đại biểu, cần tập trung làm rõ hơn quan điểm về ứng dụng khoa học và công nghệ trong quản trị, phát triển tài nguyên nước, đặc biệt là công nghệ số để thống nhất về cơ sở dữ liệu, giảm thiểu nhân lực, quản lý vận hành hiệu quả, tiết kiệm chi phí, thuận lợi trong kiểm tra, giám sát… trong dự thảo Luật nhằm quản lý có hiệu quả và phát triển bền vững tài nguyên nước.

Để hoàn thiện dự thảo luật, đại biểu đề xuất nhiều nội dung cụ thể liên quan đến các điều khoản về giải thích từ ngữ, bảo vệ tài nguyên nước và phục hồi nguồn nước; điều hòa, phân phối và khai thác, sử dụng tài nguyên nước; ….

Cũng tại phiên thảo luận, các đại biểu đề nghị rà soát, đối chiếu các quy định về an sinh xã hội trong dự thảo Luật với Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Việc làm…; rà soát, bổ sung các quy định về bình đẳng giới; rà soát kỹ thuật văn bản, thống nhất và chuẩn hóa các thuật ngữ, khái niệm như “nguồn nước sinh hoạt”, “nước sinh hoạt”, “nước sạch”; bổ sung giải thích một số từ ngữ cho dễ hiểu, dễ áp dụng, sắp xếp bố cục các chương, mục, điều, khoản, điểm của dự thảo Luật cho phù hợp./.

Lê Anh - Nghĩa Đức

Các bài viết khác