TÍCH HỢP TRÁCH NHIỆM, THỐNG NHẤT CƠ QUAN CHỦ TRÌ QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC

26/07/2023

Tại Kỳ họp thứ 5 vừa qua, dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã được trình Quốc hội khóa XV xem xét, cho ý kiến. Đại diện cơ quan soạn thảo cho rằng, để có được những quy định khả thi, bắt kịp nhịp độ phát triển, tương thích với pháp luật quốc tế, cần tích cực tham khảo quy định, cơ chế, chính sách của các nước tiên tiến trong lĩnh vực này. Qua kinh nghiệm từ Hàn Quốc, nhiều nhà nghiên cứu, nhà quản lý cho rằng cần tích hợp trách nhiệm, thống nhất cơ quan chủ trì quản lý tài nguyên nước.

SỬA ĐỔI LUẬT TÀI NGUYÊN NƯỚC ĐỂ KỊP THỜI KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG Ô NHIỄM DO NƯỚC THẢI SINH HOẠT, CÔNG NGHIỆP, NÔNG NGHIỆP

Tại Kỳ họp thứ 5 vừa qua, dự án Luật Tài nguyên nước (sửa đổi) đã được trình Quốc hội khóa XV xem xét, cho ý kiến. Đại diện cơ quan soạn thảo cho rằng, để có được những quy định khả thi, bắt kịp nhịp độ phát triển, tương thích với pháp luật quốc tế, cần tích cực tham khảo quy định, cơ chế, chính sách của các nước tiên tiến trong lĩnh vực này.

Theo đó, Hàn Quốc đã được công nhận rộng rãi về sự chuyển mình nhanh chóng từ một quốc gia bị chiến tranh tàn phá thành một trong 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới. Trong lĩnh vực tài nguyên nước, Hàn Quốc cũng là một trong những quốc gia nổi bật tại Châu Á về những thành tựu đạt được trong quá trình chuyển đổi từ giai đoạn nguồn nước bị ô nhiễm nặng nề sang quản lý nguồn nước chủ động với trình độ kỹ thuật, khoa học công nghệ cao. Luật pháp, thể chế và sự lãnh đạo được hệ thống hóa là những yếu tố then chốt để phát triển và duy trì thành công trong quản lý tài nguyên nước ở Hàn Quốc.

Toàn cảnh phiên họp

Tương tự như Việt Nam, công tác quản lý tài nguyên nước ở Hàn Quốc trước đây do nhiều Bộ cùng tham gia, trong đó phải kể đến 04 bộ quan trọng nhất là Bộ Đất đai, Cơ sở hạ tầng và Giao thông vận tải (MOLIT); Bộ Môi trường (MOE); Bộ Nông nghiệp, Thực phẩm và Nông thôn (MAFRA); Bộ Nội vụ và An toàn (MOIS). Bên cạnh đó, quản lý tài nguyên nước cũng được phân cấp với vai trò chủ động của các chính quyền địa phương. Nhiều bộ luật liên quan đến tài nguyên nước đã được ban hành và vận hành bởi 4 Bộ lớn liên quan đến nước nêu trên.

Việc có quá nhiều bên tham gia vào công tác quản lý tài nguyên nước, đôi khi làm giảm tính hiệu quả và nhất quán của việc thi hành các chính sách của Hàn Quốc. Bên cạnh đó, sự chồng chéo của các kế hoạch, bộ luật cũng khiến việc sử dụng ngân sách kém hiệu quả. Do đó, vào năm 2018, chính phủ Hàn Quốc đã điều chỉnh toàn diện hệ thống quản lý tài nguyên nước quốc gia từ mô hình phân tán trách nhiệm giữa các bộ thành cấu trúc tích hợp với Bộ Môi trường là cơ quan chủ trì duy nhất.

Mục tiêu của cuộc cải cách này là tối đa hóa hiệu quả hành chính trong quản lý tài nguyên nước nhằm đảm bảo sử dụng hiệu quả chi phí, công bằng và bền vững nguồn tài nguyên nước hạn chế của quốc gia. Theo Đạo luật Khung mới về Quản lý tài nguyên Nước, Hàn Quốc sẽ xây dựng Kế hoạch Quản lý tài nguyên nước Quốc gia 10 năm một lần, xác định các mục tiêu chính sách và các biện pháp cụ thể về các vấn đề toàn diện về nước bao gồm chất lượng nước, tài nguyên nước, thảm họa nước, xung đột và ngành nước. Kế hoạch quản lý nước quốc gia đầu tiên được xây dựng vào năm 2020.

Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh

Trong khi đó, tại Thái Lan, tính đến tháng 6 năm 2020, Thái Lan thành lập 22 Ủy ban lưu vực sông cùng các văn phòng và các tiểu ban chuyên môn và tiểu ban địa phương để quản lý tài nguyên nước tại cấp lưu vực trên cơ sở Luật Tài nguyên nước 2018.

Ủy ban lưu vực sông có các nhiệm vụ và quyền hạn sau: Kiến nghị lên Ủy ban Tài nguyên nước quốc gia các vấn đề chính sách, kế hoạch, dự án; Lập qui hoạch quản lý tài nguyên nước lưu vực sông gồm nước mặt và nước dưới đất; khai thác sử dụng và phòng chống lũ lụt; Điều phối việc xây dựng kế hoạch và ngân sách liên quan đến tài nguyên nước lưu vực của các ngành; Xác lập yêu cầu dùng nước và ưu tiên phân phối nước; Giám sát và đánh giá việc khai thác sử dụng nước mặt và nước dưới đất; Hỗ trợ tư vấn cho các địa phương về quản lý tài nguyên nước; Thông tin về các hạ tầng và hoạt động khai thác sử dụng nước; Giải quyết tranh chấp về tài nguyên nước; Phối hợp với các lưu vực sông lân cận; Truyền thông nâng cao nhận thức; Ra quyết định lập các tiểu ban.

Cơ cấu thành viên tiểu ban có đại diện các ngành, các giới và địa phương tham gia hoạt động trực tiếp: các ngành chuyên môn nhà nước ban đầu rất đông (gần 1/2) sau giảm xuống còn khoảng 1/3, còn lại phân bổ cho 5 nhóm đối tượng người dùng nước: nông dân, tư nhân (công nghiệp và dịch vụ), chuyên gia và nhân vật có tiếng, tổ chức phi chính phủ, chính quyền địa phương kể cả cấp xã, làng.

Trong khi đó, tại Úc, hệ thống Luật Tài nguyên nước của Úc đã phát triển trong hoàn cảnh pháp lý, kinh tế xã hội và khí hậu khác với ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc xem xét các yếu tố quan trọng của hệ thống Luật tài nguyên nước của Úc cũng cho thấy những điểm tương đồng quan trọng với Luật tài nguyên nước của Việt Nam.

Khung chính sách về nước của Chính phủ (các bang) trao quyền sử dụng và kiểm soát nước, bao gồm cả việc cho phép các đối tượng khác khai thác sử dụng nước. Các hình phạt sẽ áp dụng cho hành vi khai thác, sử dụng nước trái phép.

Nhà nước cho phép các cá nhân chuyển đổi nguồn nước bằng cách sử dụng nhiều chế độ khác nhau để cấp “quyền sử dụng nước”. Luật pháp cũng cho phép sử dụng tài nguyên nước cho các mục đích nhất định (thường là sử dụng cho hộ gia đình, chăn nuôi và Người bản địa) mà không cần giấy phép. Quyền được cấp nước thường giới hạn tổng lượng nước có thể chuyển dòng hoặc tỷ lệ "tiêu thụ" mà người dùng có thể khai thác, sử dụng mỗi năm và áp dụng các điều kiện khác để sử dụng nguồn nước. Các quyền về nước mặt thường tách biệt với đất đai và được coi là tài sản, vì vậy các chủ sở hữu khai thác, sử dụng nước có thể tiếp cận nguồn tài chính ngân hàng dành cho các dự án phát triển khai thác, sử dụng nước bằng cách sử dụng quyền khai thác, sử dụng nước để bảo đảm cho các khoản vay.

Các Bang thông qua các kế hoạch quản lý tài nguyên nước theo quy định đối với các lưu vực sông và tầng chứa nước riêng biệt theo các thủ tục lập pháp, bao gồm các điều khoản chi tiết cho sự tham gia của cộng đồng. Tại Lưu vực Murray-Darling, Chính phủ đặt ra các yêu cầu đối với các kế hoạch quản lý mà các Bang trong Lưu vực phải tuân thủ. Các kế hoạch quản lý đề ra các quy tắc ràng buộc về mặt pháp lý. Ngoài ra, những quy tắc này hạn chế cách các cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép khai thác, sử dụng nước mới (giấy phép mới thường phải phù hợp với kế hoạch quản lý) hoặc chấp thuận việc chuyển nước trong lưu vực sông hoặc tầng chứa nước (tức là các quy tắc kinh doanh), bao gồm cả việc quy định giới hạn đối với tổng hợp lượng nước khai thác, sử dụng dựa trên các mối quan tâm về môi trường. Các quy tắc này đảm bảo an ninh cho người sử dụng nước vì chúng rõ ràng, cụ thể và ràng buộc về mặt pháp lý và có thể thực thi trong thực tiễn, đồng thời đảm bảo rằng nguồn nước không bị phân bổ vượt quá khả năng của nó, từ đó, bảo vệ lưu vực khỏi tình trạng thiếu nước.

Minh Hùng