TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG: ĐỔI MỚI MẠNH MẼ, PHÁT HUY HẾT TIỀM NĂNG VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ĐỂ LUÔN XỨNG ĐÁNG LÀ TRUNG TÂM CHÍNH TRỊ ĐẦU NÃO QUỐC GIA

29/11/2022

Sáng 29/11, phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển KT-XH và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, với niềm tin và kỳ vọng lớn lao về sự phát triển của Vùng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, Nghị quyết ban hành là rất quan trọng nhưng hơn hết phải thấm nhuần và thực hiện tốt, biến tư tưởng chỉ đạo, chính sách, chủ trương thành hiện thực sinh động, ra của cải vật chất. Lúc đó mới là thực hiện thành công Nghị quyết.

TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG CHỦ TRÌ HỘI NGHỊ TOÀN QUỐC QUÁN TRIỆT NGHỊ QUYẾT SỐ 30-NQ/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÙNG ĐỒNG BĂNG SÔNG HỒNG

PHÓ CHỦ TỊCH QUỐC HỘI TRẦN QUANG PHƯƠNG: ĐẢNG ĐOÀN QUỐC HỘI QUYẾT TÂM, ĐỒNG HÀNH ĐỂ CÙNG THỰC HIỆN THẮNG LỢI NGHỊ QUYẾT CỦA BỘ CHÍNH TRỊ VỀ PHÁT TRIỂN VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu chỉ đạo tại hội nghị

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho biết, đây là hội nghị cuối cùng theo kế hoạch nhằm quán triệt đầy đủ các nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh cho cả 6 Vùng trong cả nước.

Cũng như các hội nghị quán triệt các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội các Vùng trong cả nước trước đây, tại hội nghị lần này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục gợi mở, nhấn mạnh và tập trung trả lời 3 câu hỏi:

1- Vì sao vào lúc này Bộ Chính trị lại phải bàn và ra Nghị quyết về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045?

2- Những ý tưởng mới, tinh thần mới, nội dung mới của Nghị quyết lần này là gì?

3- Chúng ta phải làm gì và làm như thế nào để tổ chức thực hiện có kết quả những mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết lần này của Bộ Chính trị đã đề ra, biến Nghị quyết thành hiện thực sinh động?

Nhấn mạnh việc phổ biến, quán triệt các nội dung cơ bản của Nghị quyết số 30-NQ/TW của Bộ Chính trị tạo sự thống nhất cao về nhận thức và hành động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân cả nước cũng như trong Vùng nhằm sớm đưa Nghị quyết quan trọng này vào cuộc sống, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về phát triển Vùng - vấn đề có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn trong việc phát triển nhanh bền vững mỗi Vùng nói riêng và cả nước nói chung.

Toàn cảnh hội nghị tại điểm cầu chính

Nhắc lại tinh thần triển khai thực hiện “Tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, Tổng Bí thư nêu rõ không chỉ làm độc lập từng tỉnh, từng khu vực mà sau khi có Nghị quyết của Đại hội, Trung ương ra Nghị quyết, Bộ Chính trị ra Nghị quyết thì các Vùng phải triển khai thực hiện một cách đồng bộ bởi tất cả có mối quan hệ mật thiết, liên hoàn với nhau. Nếu một Vùng tách ra khó có thể thực hiện được nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập như hiện nay.

Vùng đồng bằng sông Hồng có ý nghĩa chiến lược, quan trọng bậc nhất của cả nước

Trả lời câu hỏi vì sao vào lúc này Bộ Chính trị lại phải bàn và ra Nghị quyết về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, Vùng đồng bằng sông Hồng gồm 11 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, được phân thành 2 tiểu vùng là: Tiểu vùng Bắc đồng bằng sông Hồng (đồng thời cũng là Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ), gồm 7 tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên; và Tiểu vùng Nam đồng bằng sông Hồng, gồm 4 tỉnh: Thái Bình, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình. Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, đây luôn luôn là địa bàn cốt lõi của Vùng Thủ đô, có ý nghĩa chiến lược, quan trọng bậc nhất của cả nước về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Vùng đồng bằng sông Hồng được coi là cửa ngõ phía Bắc của nước ta và ASEAN về kết nối phát triển kinh tế, thương mại với Trung Quốc - thị trường rộng lớn nhất thế giới và ngược lại; có hệ thống hạ tầng giao thông kết nối đồng bộ và tốt nhất cả nước về cả đường bộ, đường biển, đường sông, đường hàng không, đường sắt với ba tuyến hành lang kinh tế đi qua: Hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; Hành lang kinh tế Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; Hành lang kinh tế Bắc - Nam (có tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam đi qua), là tuyến hành lang kết nối các tuyến hành lang kinh tế phía Bắc với hành lang kinh tế phía Nam, tham gia vào tuyến hành lang xuyên Á. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ thuộc Vùng đồng bằng sông Hồng là một trong ba Vùng động lực phát triển kinh tế của cả nước.

Các đại biểu dự hội nghị tại điểm cầu Nhà Quốc hội

Đặc biệt, trong Vùng có Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia; trung tâm lớn về kinh tế, văn hoá, khoa học - công nghệ lớn nhất của cả nước, có lịch sử phát triển hàng nghìn năm, hào hoa và thanh lịch, văn hiến và anh hùng, nơi lắng hồn núi sông ngàn năm, nơi thủ đô của lương tri và phẩm giá con người.

Nói đến Vùng đồng bằng sông Hồng cũng là nói đến vùng đất châu thổ sông Hồng rất màu mỡ và giàu tiềm năng phát triển, có truyền thống lịch sử văn hiến, cách mạng, anh hùng, rất vẻ vang; có nền văn hóa lâu đời, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa sông Hồng, nền văn minh lúa nước với vô vàn những di sản văn hóa vật thể cũng như phi vật thể quý giá, nhất là những làn điệu dân ca lay động làm say đắm lòng người, nuôi dưỡng, nâng cao tâm hồn và trí tuệ con người, rất đa dạng, phong phú mà hầu như địa phương nào cũng có như Quan họ Bắc Ninh; Chèo Thái Bình, Hưng Yên; Chầu Văn Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, cây đàn bầu một dây làm rung động lòng người, da diết, thiết tha…Đồng thời, đây cũng là trung tâm hàng đầu về y tế, giáo dục, đào tạo, khoa học, công nghệ với đội ngũ trí thức giỏi và đông đảo lực lượng lao động có chất lương cao; là cái nôi sản sinh, đào tạo và cung ứng nguồn nhân lực cho cả nước với nhiều trường đại học, trung tâm nghiên cứu có uy tín. Do vậy, đây thường được gọi là Vùng "địa linh nhân kiệt", có nhiều thuận lợi về cả địa chính trị, địa kinh tế, địa văn hóa và nhiều tiềm năng, lợi thế to lớn, vượt trội cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội nhanh và bền vững.

Từ 1907, danh nhân văn hóa Ngô Quý Siêu thành viên của phong trào Đông Kinh nghĩa thục đã từng viết về đồng bằng sông Hồng:

“Hưng Yên, Nam Định, Bắc Ninh

Hải Dương, An Quảng gần quanh Hải Phòng.

Tiện thay sông Nhị một dòng

Thuyền xuôi lại ngược giàu lòng thảnh thơi.

Tản Viên, Tam Đảo ngất trời

Rừng ngang một dải liền mười sáu châu.

Đồng Tụ Long, thiếc sông Ngâu

Tiền rừng bạc biển chẳng đâu sánh bằng.”

Phát triển nhanh nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế vượt trội và vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của Vùng

Xuất phát từ vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của Vùng, ngày 14/9/2005, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 54-NQ/TW; và ngày 28/10/2011, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Kết luận số 13-KL/TW về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2010 và thời kỳ 2011 - 2020.

Qua 17 năm thực hiện Nghị quyết và Kết luận của Bộ Chính trị các khóa IX và XI, các cấp ủy đảng, chính quyền và nhân dân trong Vùng đã phát huy truyền thống văn hiến, cách mạng, anh hùng vẻ vang và những tiềm năng, lợi thế vượt trội, nhất là về nguồn nhân lực, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, liên tục phấn đấu đạt được nhiều kết quả, thành tựu quan trọng. Nhờ đó, Vùng đồng bằng sông Hồng luôn luôn khẳng định được vị trí, vai trò của một vùng kinh tế động lực, có đóng góp to lớn, có ý nghĩa quan trọng hàng đầu cho tăng trưởng kinh tế của cả nước, thúc đẩy, hỗ trợ các vùng khác cùng phát triển. 

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gợi mở, nhấn mạnh và tập trung trả lời 3 câu hỏi liên quan đến sự cần thiết ban hành Nghị quyết, các nội dung và việc tổ chức thực hiện Nghị quyết

Tuy là một vùng đất chật, người đông nhất so với các vùng khác; diện tích tự nhiên chỉ có 21.278 km2, chiếm khoảng 6,42% diện tích cả nước; dân số khoảng hơn 23 triệu người, chiếm gần 24% dân số cả nước, nhưng quy mô kinh tế của Vùng luôn luôn được mở rộng; tỷ trọng đóng góp vào GDP cả nước tăng từ 26,9% năm 2010 lên 29,4% năm 2020; thu nhập bình quân đầu người cao hơn 1,3 lần so với bình quân chung cả nước; tổng thu ngân sách nhà nước của Vùng chiếm tới 32,7% tổng thu ngân sách của cả nước, tốc độ tăng thu bình quân là 16,7%/năm; tổng vốn đầu tư xã hội gấp 19,7 lần năm 2005 và chiếm 35,1%, đứng đầu cả nước; số lượng đô thị vùng tăng nhanh, tỉ lệ đô thị hoá của Vùng đến năm 2021 đạt 41%.

Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ phát triển khá nhanh và bền vững; hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới và khu vực, đang trở thành một trong các vùng dẫn đầu cả nước về phát triển kinh tế, thực hiện các đột phá chiến lược, cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học kỹ thuật lớn nhất của cả nước. Hai tuyến hành lang kinh tế (Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh; Lạng Sơn - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh); 05 hành lang công nghiệp (Hà Nội - Hải Phòng; Hà Nội - Nội Bài - Hạ Long; Hà Nội - Việt Trì; Hà Nội - Bắc Giang - Lạng Sơn), và hành lang kinh tế ven biển (Quảng Ninh - Hải Phòng - Thái Bình - Nam Định - Ninh Bình) từng bước được hình thành, phát triển; liên kết giữa đô thị trung tâm vùng đồng bằng sông Hồng với các địa phương, khu vực ven biển, các Khu đô thị, Khu công nghiệp, các cửa khẩu, cảng biển và các vùng khác, tạo động lực cho phát triển các địa phương và toàn vùng. Tam giác phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh đang trở thành hạt nhân, trụ cột phát triển của Vùng và cả nước.

Tuy nhiên, vùng đồng bằng sông Hồng vẫn còn một số mặt hạn chế. Đó là, kinh tế - xã hội phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế vượt trội và vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của Vùng; quy mô kinh tế còn nhỏ, các ngành sản xuất với công nghệ hiện đại chiếm tỉ lệ thấp, chưa tạo được tiền đề cho sự phát triển nhanh và bền vững hơn nữa. Một số loại thị trường hình thành chậm và chưa đồng bộ. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển trong thời kỳ mới. Công nghiệp, đô thị phát triển khá nhưng còn mang tính tự phát; ô nhiễm môi trường có xu hướng tăng nặng hơn. Chưa hình thành được các vùng sản xuất nông sản hàng hóa tập trung cho xuất khẩu; giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích chưa cao; tỷ lệ lao động nông nghiệp thiếu việc làm còn lớn; đời sống nhân dân ở nhiều vùng nông thôn còn khó khăn. Trình độ phát triển giữa các địa phương trong vùng, giữa các tiểu vùng còn có sự chênh lệch đáng kể.

Đại hội XIII của Đảng đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, phấn đấu đến năm 2030 nước ta trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao; đồng thời định hướng phát triển vùng theo hướng: "khai thác tốt hơn và phát huy tốt nhất các lợi thế của mỗi vùng về kết cấu hạ tầng, điều kiện tự nhiên, vị trí địa kinh tế - chính trị, nguồn nhân lực và tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng để tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, tạo không gian phát triển mới...". Tình hình thế giới, khu vực và trong nước, vùng đồng bằng sông Hồng có nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức mới đan xen.

Các đại biểu dự hội nghị

Thực tế trên đây đã đặt ra yêu cầu phải tiến hành tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 54-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX; Kết luận số 28-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI và ban hành Nghị quyết mới về vấn đề đặc biệt quan trọng này, góp phần tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ, có tính đột phá trong công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở Vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước trong giai đoạn phát triển mới.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh với những lý do khách quan, chủ quan và trước những yêu cầu mới đòi hỏi phải có sự phát triển mạnh mẽ hơn nữa nhất là Vùng đặc biệt quan trọng này.

Trách nhiệm của các địa phương trong vùng và toàn hệ thống chính trị phát triển nhanh, bền vững Vùng đồng bằng sông Hồng

Trả lời câu hỏi về những ý tưởng mới, tinh thần mới, nội dung mới của Nghị quyết lần này là gì, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu rõ, những ý tưởng mới, tinh thần mới, nội dung mới của Nghị quyết Bộ Chính trị lần này có 3 điểm đáng chú ý. 

Về quan điểm, nhận thức và tư tưởng chỉ đạo, Tổng Bí thư cho biết, Nghị quyết này đã kế thừa, bổ sung, phát triển thành 5 quan điểm chỉ đạo quan trọng và mới mẻ, sát hợp với tình hình mới. Nghị quyết lần này của Bộ Chính trị tiếp tục xác định: Vùng đồng bằng sông Hồng là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Phát triển nhanh, bền vững Vùng đồng bằng sông Hồng là trách nhiệm của các địa phương trong vùng và toàn hệ thống chính trị.

Các địa phương trong Vùng cần phải bám sát các chủ trương, đường lối của Đảng, khai thác, sử dụng có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế vượt trội; phát huy thật tốt vai trò là Vùng động lực phát triển hàng đầu để định hướng, dẫn dắt quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của cả nước.

Phát triển vùng phải phù hợp với Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, thống nhất với Quy hoạch tổng thể quốc gia, phù hợp với chiến lược phát triển bền vững, chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược biển, tăng trưởng xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu quốc gia.

Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy liên kết và thể chế điều phối phát triển Vùng đủ mạnh, thiết thực, hiệu quả; tăng cường liên kết nội vùng, liên vùng; thí điểm một số mô hình, cơ chế, chính sách mới, tạo đột phá để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế vượt trội của Vùng. Phát huy vai trò và khai thác có hiệu quả các hành lang, vành đai kinh tế, các trung tâm kinh tế, hệ thống đô thị.

Vùng Đồng bằng sông Hồng cần phải đi đầu trong việc ứng dụng khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số, xã hội số. Nâng cao năng suất lao động, tăng nhanh tỷ trọng đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp vào tăng trưởng. Tập trung phát triển các ngành sản xuất công nghiệp, dịch vụ hiện đại, nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn. Phát triển nhan mạng lưới đô thị với hạ tầng đồng bộ, kết nối.

Phát huy mạnh hơn nữa truyền thống lịch sử văn hiến, cách mạng, anh hùng để phát triển hài hòa giữa chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển kinh tế đi đôi với bảo đảm an sinh xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, bảo đảm công bằng xã hội. Coi trọng công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đề cao trách nhiệm nêu gương, bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung...

Rõ mục tiêu tổng quát và một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Về mục tiêu, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, có thể xem đây là nội dung hoàn toàn mới. Nghị quyết đã xác định rất rõ mục tiêu tổng quát và một số chỉ tiêu cụ thể đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.

Phấn đấu đến năm 2030, Vùng đồng bằng sông Hồng phát triển nhanh, bền vững, có cơ cấu kinh tế hiện đại, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc; tập trung phát triển công nghiệp, dịch vụ hiện đại và nông nghiệp công nghệ cao, hữu cơ, tuần hoàn; trở thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của cả nước; đi đầu về phát triển khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, kinh tế số, xã hội số; có hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, hiện đại và hệ thống đô thị thông minh, kết nối. Hệ thống chính trị vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả; quốc phòng, an ninh được giữ vững; quan hệ đối ngoại mở rộng, hội nhập quốc tế hiệu quả. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao, dẫn đầu cả nước. Thủ đô Hà Nội là Thành phố "Văn hiến - Văn minh - Hiện đại"; là trung tâm, động lực thúc đẩy phát triển vùng và cả nước, phấn đấu ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực.

Đến năm 2045, Đồng bằng sông Hồng là vùng phát triển hiện đại, văn minh, sinh thái; là trung tâm hàng đầu của cả nước về giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, thông minh và một số trung tâm kinh tế, tài chính lớn mang tầm khu vực và thế giới. Hệ thống đô thị liên kết thành mạng lưới, thông minh, xanh, bền vững. Người dân có thu nhập cao, đời sống hạnh phúc và thịnh vượng. Quốc phòng, an ninh được bảo đảm vững chắc. Hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khối đại đoàn kết toàn dân tộc được tăng cường. Thủ đô Hà Nội trở thành thành phố kết nối toàn cầu, phát triển ngang tầm thủ đô các nước phát triển ở khu vực và thế giới".

Mục tiêu rất cao, rất cần thiết và phù hợp với đặc điểm mới, yêu cầu mời nhưng cũng rất khó nếu không quyết tâm, quyết liệt thì khó có thể thực hiện được, Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Nhận thức đầy đủ, thống nhất cao về ý chí, quyết tâm 

Trả lời câu hỏi phải làm gì và làm như thế nào để tổ chức thực hiện có kết quả những mục tiêu, nhiệm vụ mà Nghị quyết đề ra, biến Nghị quyết thành hiện thực sinh động, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ, Nghị quyết lần này đề ra đầy đủ, đồng bộ các giải pháp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, bao gồm các nhóm nhiệm vụ, giải pháp về hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển và đẩy mạnh liên kết vùng; chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng để phát triển nhanh và bền vững Vùng, các Tiểu vùng và các địa phương trong vùng; phát triển khoa học - công nghệ, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; phát triển văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên, bảo vệ môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh; xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh...

Để tổ chức thực hiện có kết quả Nghị quyết lần này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị, phải nhận thức thật đầy đủ và sâu sắc mục đích, ý nghĩa, yêu cầu, nội dung của Nghị quyết, nắm vững những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo, những công việc phải làm. Trên cơ sở đó có sự thống nhất cao về ý chí, quyết tâm của cả nước, của toàn vùng, của từng địa phương trong vùng, các cấp, các ngành từ Trung ương đến địa phương.

Xác định rõ đây là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị, chứ không chỉ là nhiệm vụ riêng của Vùng và các địa phương trong Vùng. Đồng thời, phải nhận thức thật đúng và giải quyết thật tốt mối quan hệ giữa phát triển Vùng và phát triển chung của cả nước, "cả nước vì Vùng và Vùng vì cả nước". Tạo sự thống nhất cao trong nhận thức ở tất cả các cấp, các ngành về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của Vùng và liên kết vùng. Liên kết vùng phải trở thành tư duy chủ đạo dẫn dắt sự phát triển toàn vùng và từng địa phương trong Vùng. Tập trung ưu tiên hoàn thiện thể chế, chính sách cho phát triển Vùng và liên kết vùng về tổ chức, bộ máy, nguồn lực và cơ chế triển khai; tham gia có hiệu quả vào các hoạt động hợp tác với Trung Quốc, các nước ASEAN, Đông Bắc Á.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lưu ý, phải khơi dậy và phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống văn hiến, cách mạng, tinh thần yêu nước; tính chủ động, sáng tạo; ý chí vươn lên, tự lực, tự cường của cán bộ, đảng viên và Nhân dân các địa phương trong vùng; quyết vượt lên chính mình, khắc phục tư tưởng tự mãn, bằng lòng với những gì đã làm; trái lại, phải có ý chí và quyết tâm cao hơn nữa, quyết vươn lên làm cho bản thân, gia đình và quê hương, đất nước giàu mạnh và tốt đẹp hơn, dẫn đầu cả nước.

Đồng thời tranh thủ sự hỗ trợ của Trung ương, sự hợp tác, giúp đỡ của các địa phương trong cả nước, nhất là Thành phố Hồ Chí Minh và các thành phố trực thuộc Trung ương để phát triển kinh tế vùng nhanh và bền vững hơn, giàu có, trù phú hơn; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vùng đạt mức cao hơn, luôn dẫn đầu cả nước trên cơ sở từng bước đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế vùng để phát huy tốt hơn nữa tiềm năng, lợi thế to lớn, vượt trội vốn có của Vùng, nhất là về địa chính trị, địa kinh tế và nguồn nhân lực chất lượng cao.

Cụ thể hóa Nghị quyết bằng Chương trình hành động và các cơ chế, chính sách, kế hoạch, đề án, dự án và nguồn lực cụ thể, có tính khả thi cao

Trên cơ sở đổi mới về tư duy và nhận thức, vùng cần khẩn trương đẩy mạnh việc xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển. Chính phủ và các cơ quan ở Trung ương cần tăng cường phối hợp với các địa phương trong vùng sớm xây dựng, hoàn thiện, ban hành và triển khai thực hiện luật pháp, chính sách ưu tiên vượt trội, có tính đột phá cao cho phát triển vùng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề nghị, chú trọng và nâng cao hơn nữa chất lượng công tác xây dựng bộ máy tổ chức và cán bộ; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng; hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cấp chính quyền; tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Nghiêm túc thực hiện Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị gắn với Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị...

Suy cho cùng vẫn là vấn đề nguồn lực tài chính, nhân lực và cơ chế. Con người không liêm, không sạch, cơ chế không thông thoáng, không cởi mở, không tạo điều kiện thì không làm được. Do đó, phải thẩm nhuần mục đích, yêu câu, nội dung công việc sắp tới để có đổi mới thực sự và cụ thể. Chủ trương đề ra có làm được hay không phải dựa vào tổ chức thực hiện cũng chính là dựa vào con người và cơ chế, Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định tham dự hội nghị

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu, ngay sau Hội nghị này, các cấp ủy và tổ chức đảng ở Trung ương và các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị trong toàn hệ thống chính trị ở các địa phương trong vùng cần khẩn trương xây dựng kế hoạch hành động, chương trình học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết gắn với tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng và nghị quyết đại hội đảng bộ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Đảng đoàn Quốc hội, Ban cán sự đảng Chính phủ cần ráo riết chỉ đạo, khẩn trương xây dựng, ban hành Chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết; giao nhiệm vụ cụ thể cho các bộ, ngành ở Trung ương và các địa phương trong vùng...

Tổng Bí thư lưu ý, Chương trình hành động phải bám sát quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và nội dung của Nghị quyết, bảo đảm sát hợp với từng địa phương trong Vùng và Tiểu vùng. Các ban, bộ, ngành trung ương và địa phương trong Vùng cần cụ thể hóa Nghị quyết và Chương trình hành động của Chính phủ bằng các cơ chế, chính sách, kế hoạch, đề án, dự án và nguồn lực cụ thể có tính khả thi cao.

Với niềm tin và kỳ vọng lớn lao về sự phát triển của Vùng, Tổng Bí thư tha thiết mong đợi và tin tưởng cấp ủy, chính quyền và Nhân dân các tỉnh trong Vùng đồng bằng sông Hồng nhất định sẽ phát huy truyền thống văn hiến, cách mạng, anh hùng vẻ vang, khí phách quật cường và tài năng, phẩm chất cao quý, rất tốt đẹp của người "Bắc Hà"; cùng với các ban, bộ, ngành Trung ương và cấp ủy, chính quyền các cấp trong cả nước, nhất là Thủ đô Hà Nội và toàn Vùng đồng bằng sông Hồng, vùng động lực tăng trưởng Bắc Bộ đã đổi mới, nỗ lực phấn đấu rồi càng đẩy mạnh đổi mới, nỗ lực phấn đấu mạnh mẽ hơn nữa, quyết thực hiện thắng lợi Nghị quyết của Bộ Chính trị lần này, tạo ra bước chuyển biến mới có tính đột phá trong việc phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh ở Vùng đồng bằng sông Hồng theo tinh thần “cả nước vì đồng bằng sông Hồng; đồng bằng sông Hồng vươn lên cùng cả nước và vì cả nước”, phát huy mạnh mẽ hơn nữa truyền thống văn hiến, cách mạng, anh hùng vẻ vang và tiềm năng, lợi thế vượt trội để luôn luôn xứng đáng là trung tâm chính trị đầu não quốc gia; là một trong hai động lực phát triển mạnh mẽ hàng đầu trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, có nhiều đóng góp to lớn hơn nữa cho việc hiện thực hoá khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.

Một số hình ảnh tại hội nghị:

Toàn cảnh hội nghị tại điểm cầu chính

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cùng Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng chủ trì hội nghị

Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng điều hành phát biểu tại hội nghị

Thay mặt Bộ Chính trị, Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh đã quán triệt những nội dung chủ yếu của Nghị quyết số 30-NQ/TW

Đại diện Ban cán sự Đảng Chính phủ, Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Phạm Bình Minh trình bày Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 

Đại diện Đảng đoàn Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội Thượng tướng Trần Quang Phương trình bày Chương trình hành động của Quốc hội thực hiện Nghị quyết

Các đại biểu dự hội nghị từ điểm cầu Nhà Quốc hội

Bảo Yến - Nghĩa Đức