Error

Web Part Error: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe. Correlation ID: d0d866a1-69bf-90f0-dd35-d4ec44913469.

Error Details:
[UnsafeControlException: A Web Part or Web Form Control on this Page cannot be displayed or imported. The type TVPortal.Publishing.Category.wpMenuLeftDaiBieuQuocHoi2, TVPortal.Publishing.Category, Version=1.0.0.0, Culture=neutral, PublicKeyToken=616514c961de576d could not be found or it is not registered as safe.]
  at Microsoft.SharePoint.ApplicationRuntime.SafeControls.GetTypeFromGuid(Boolean isAppWeb, Guid guid, Guid solutionId, Nullable`1 solutionWebId, String assemblyFullName, String typeFullName, Boolean throwIfNotSafe)
  at Microsoft.SharePoint.WebPartPages.SPWebPartManager.CreateWebPartsFromRowSetData(Boolean onlyInitializeClosedWebParts)

Ý KIẾN ĐBQH TỈNH NGHỆ AN: VỀ VẤN ĐỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ, THỰC TRẠNG VÀ TRÁCH NHIỆM QUẢN LÝ CỦA BỘ CÔNG THƯƠNG

16/05/2018

Bộ Trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh đã có văn bản trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thanh Hiền - Đoàn Đại biểu Quốc hội Tỉnh Nghệ An về vấn đề phát triển công nghiệp hỗ trợ; thực trạng và trách nhiệm quản lý của Bộ Công thương.

Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thanh Hiền - Đoàn Đại biểu Quốc hội Tỉnh Nghệ An

Ngày 16/12/2016, Bộ Trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh đã có văn bản trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thanh Hiền - Đoàn Đại biểu Quốc hội Tỉnh Nghệ An về vấn đề phát triển công nghiệp hỗ trợ; thực trạng và trách nhiệm quản lý của Bộ Công thương.

Toàn bộ nội dung câu hỏi chất vấn của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Thanh Hiền - Đoàn Đại biểu Quốc hội Tỉnh Nghệ An như sau:

“Tôi xin chuyển tới Bộ trưởng 2 câu hỏi:

Thứ nhất, được biết năm 2007 Bộ Công Thương có quyết định phê duyệt về quy hoạch phát triển công nghiệp phụ trợ đến 2010 và tầm nhìn đến 2020. Nhưng cho đến nay việc phát triển công nghiệp phụ trợ nước ta rất hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát trỉến. Từ thực tế đó, về trách nhiệm quản lý của bộ trong quá trình thực hiện quyết định đó và hiện nay đạt đến mức độ nào, kết quả ra sao. So với mục tiêu đặt ra ban đầu và những giải pháp sắp tới thúc đẩy vấn đề này phát triển trong thời gian tới.

Thứ hai, trong thời gian qua, hệ thống bán lẻ nước ta chưa được quan tâm đúng mức, hiện nay có nguy cơ bị thao túng và chiếm lĩnh thị trường, trách nhiệm quản lỷ của Bộ trong vấn đề này và giải pháp sắp tới như thế nào đế thúc đẩy hệ thống bán lẻ của chúng ta phát triển. Xin cảm ơn Bộ trưởng.”

Bộ Công Thương xin được trả lời Đại biểu về vấn đề này như sau:

Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh

  1. Về vấn đề thứ nhất:

Về vấn đề phát triển công nghiệp hỗ trợ, Bộ Công Thương thống nhất với nhận định của Đại biểu về những hạn chế trong thời gian qua, chúng ta chưa đạt được mục tiêu đặt ra trong Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ cũng như chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát ữiển kinh tế đất nước

Về đánh giá mức độ hoàn thành các chỉ tiêu của của Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020 theo Quyết định số 34/2007/QĐ-BCN của Bộ trưởng Bộ Công nghiệp (nay là Bộ Công Thương), Bộ Công Thương xin báo cáo với Đại biểu cụ thể như sau:

  1. Đối với ngành dệt may:
  • Giai đoạn đầu 2007 - 2010

Quy hoạch đề ra các mục tiêu cụ thể đối với ngành dệt may dựa trên năng lực cung ứng của 3 sản phẩm, nhóm sản phẩm chính gồm: vải dệt thoi; xơ, sợi; phụ liệu. Theo đó, mục tiêu về sản xuất xơ, sợi hoàn thành với năng lực sản xuất trong nước đã có thể đáp ứng được 50% nhu cầu xơ sợi, một phần đã được xuất khẩu. Sản xuất Vải dệt thoi và phụ liệu không đạt mục tiêu đề ra với năng lực sản xuất chỉ đáp ứng được 23% và 70% nhu cầu trong khi mục tiêu đặt ra tương ứng là 30% và 90%.

Về mục tiêu xây dựng 3 trung tâm nguyên phụ liệu dệt may ở Hưng Yên, Long An và Bình Dương, Đà Nẵng: Trong giai đoạn này, tại 3 khu vực này đã xuất hiện sự tập trung số lượng lớn các doanh nghiệp ngành dệt may, tiếp nhận các doanh nghiệp dệt, nhuộm, sản xuất phụ liệu từ các khu vực lân cận, đặc biệt là các doanh nghiệp từ nội thành các thành phố di dời tới. Tuy nhiên, việc phát triển các khu vực này thành trung tâm sản xuất nguyên phụ liệu chưa rõ nét do thiếu sự liên kết cũng như các dịch vụ hỗ trợ sản xuất.

  • Giai đoạn từ năm 2010 đến nay:

Hiện tỷ lệ nội địa hóa đạt của các doanh nghiệp dệt may đạt khoảng 40%, nếu kể cả các dự án sẽ đưa vào vận hành trước năm 2018 sẽ đạt trên 45%, các phụ kiện khác khoảng 70%. Đến năm 2020, tỷ lệ có thể đạt trên 60%.

  1. Đối với ngành da giày:
  • Giai đoạn đầu 2007 - 2010: .

Quy hoạch đã đề ra mục tiêu đáp ứng 40% nhu cầu nguyên phụ liệu ngành da giày vào năm 2010. Đến năm 2010, tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước ngành da giày cũng đã đạt 40%, đạt mục tiêu đề ra. Công suất thuộc da đã đạt 270 triệu sqf (đơn vị đo tiêu chuẩn square feet) năm 2010 so với 120 triệu sqf cuối năm 2007, tăng thêm 150 triệu sqf, vượt mục tiêu sản xuất da đề ra là tăng thêm 40 triệu sqf.

  • Giai đoạn từ năm 2010 đến nay:

Nguyên phụ liệu chiếm tới 68 - 75% trong cơ cấu giá thành sản phẩm giày dép, nhưng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm này của doanh nghiệp Việt Nam hiện chỉ đạt 40 - 45%. Cụ thể, đối với da thuộc thành phẩm, hiện tỷ lệ nội địa hóa ước tính dưới 30% Trong đó, doanh nghiệp thuộc da trong nước chủ yểu là các doanh nghiệp tư nhân, có các xưởng thuộc da nhỏ và vừa, chỉ sử dụng nguồn da nguyên liệu (raw hides) trong nước. Do chất lượng thấp nên da thuộc thành phẩm của các doanh nghiệp này hầu như chỉ dùng để sản xuất các mặt hàng tiêu dùng nội địa, không đạt tiêu chuẩn làm hàng xuất khẩu.

Hiện tỷ lệ nội địa hoá da tổng hợp, da nhân tạo đạt khoảng 35%. Hiện Việt Nam vẫn phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu mũ giày (giả da, da nhân tạo, da tráng PU) từ Đài Loan, Hàn Quốc và Trung Quốc. Một số doanh nghiệp trong LEFASO đã xúc tiến đầu tư, xây dựng nhà máy sản xuất PU.

Đối với vải làm giày dép, Việt Nam mới chỉ cung ứng được vải cho sản xuất loại giày vải cấp thấp. Ngành dệt vải Việt Nam chưa chú trọng sản xuất vải dùng cho ngành giày dép. Do đó, các chủng loại vải cao cấp đều phải nhập khẩu. Tỷ lệ nội địa hoá vải làm mũ giày hiện đạt trên 70%.

  1. Đối với ngành điện tử - tin học:
  • Giai đoạn đầu 2007 - 2010:

Về mục tiêu xây dựng ngành CNHT cho công nghiệp điện tử theo xu hướng tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng linh phụ kiện của thế giới và khu vực và thu hút đầu tư nước ngoài vào sản xuất. Đến nay, Việt Nam đã thu hút được số lượng khá lớn các doanh nghiệp đầu tư vào ngành điện tử, trong đó có các Tập đoàn đa quốc gia nổi tiếng trong lĩnh vực này như Samsung, Intel, Foxconn... đầu tư sản xuất sản phẩm tại Việt Nam. Các doanh nghiệp này cùng với các nhà đầu tư FDI vừa và nhỏ chuyên sản xuất linh kiện cung ứng tại chô đã bước đầu hình thành hệ thống chuỗi cung ứng ngay trên lãnh thổ Việt Nam, tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi sản xuât. Tuy nhiên, ở đây cũng cần thẳng thắn đánh giá rằng, bên cạnh việc thu hút được nhiêu doanh nghiệp FDI lớn vào Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực này thì sự tham gia của các doanh nghiệp trong nước để gắn kết, tham gia sâu vào chuôi giá trị toàn câu còn nhiều hạn chế. Đây là khâu yếu cần được tập trung xử lý trong thời gian tới.

Về mục tiêu phát triển hệ thống các doanh nghiệp sản xuất, thiết kế sản phẩm điện tử: Trong giai đoạn này, hệ thống này vẫn chưa hình thành, các tập đoàn lớn đầu tư tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào khâu sản xuất lắp ráp, ít đầu tư vào khâu thiết kế, nghiên cứu và triển khai; hệ thống doanh nghiệp điện tử trong nước ít, không cạnh tranh được với các tập đoàn đa quốc gia nên cũng đang giảm dần các khâu sản xuất, thiết kế, tập trung vào một số khâu gia công, sản xuất linh kiện có lợi thế.

Về mục tiêu tỷ trọng cho phí nguyên vật liệu trong nước trong giá thành sản phẩm đạt 22 - 25% không hoàn thành, tỷ trọng nguyên vật liệu điện tử trong nước tới nay chỉ đạt khoảng 15% do toàn bộ các loại vật liệu điện tử và hầu hết linh kiện cơ bản vẫn đang phải nhập khẩu.

  • Giai đoạn từ năm 2010 đến nay:

Đối với điện tử gia dụng, cung ứng trong nước tới nay mới chỉ đạt được khoảng 30 - 35% cho nhu cầu linh kiện và đối với ô tô, xe máy tới nay mới đạt khoảng 40% (chủ yếu cho sản xuất xe máy).

Đối với điện tử tin học, viễn thông tới nay chỉ đạt 15%, điện tử chuyên dụng và các ngành công nghiệp công nghệ cao chỉ đạt 5%. Đầu tư FDI chiếm trên 80% số doanh nghiệp sản xuất linh kiện phụ tùng của Việt Nam, tập trung vào linh kiện điện - điện tử và linh kiện kim loại.

  1. Đối với ngành sản xuất và lắp ráp ô tô:
  • Giai đoạn đầu 2007 - 2010:

Tỷ lệ sử dụng linh kiện trong nước đối với các mẫu xe tải, xe khách, xe con đều không đạt mục tiêu đề ra, tỷ lệ sử dụng linh kiện trong nước đối với xe tải, xe khách chỉ đạt 40%, xe con đạt dưới 15% so với mục tiêu đề ra tương ứng là 60% và 15%.

Quy hoạch cũng đề mục tiêu xây dựng hệ thống tiêu chuẩn linh kiện cho ô tô sản xuất phù hợp với tiêu chuẩn chung của khu vực vào năm 2015. Trong giai đoạn này, việc xây dựng hệ thống tiêu chuẩn này chưa được triển khai, các nhà sản xuất linh kiện cho ô tô vẫn sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế hoặc tiêu chuẩn riêng của nhà sản xuất lắp ráp mà không sử dụng các hệ tiêu chuẩn của Việt Nam.

  • Giai đoạn từ năm 2010 đến nay:

Các chủng loại xe tải, xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng sản xuất trong nước đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, đạt mục tiêu đề ra đáp ứng về cơ bản thị trường nội địa (xe tải đến 07 tấn đáp ứng khoảng 70% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa trung bình 55%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đáp ứng khoảng 90% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa đạt từ 45% đến 55% vượt chỉ tiêu so với qui hoạch).

Tuy vậy, về tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi, mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2005, 60% vào năm 2010, nhưng đến nay ta mới đạt bình quân khoảng 7 - 10%. Ngành công nghiệp hỗ trợ công nghiệp ô tô đã hình thành, nhưng còn yếu kém, chỉ sản xuất được một số ít chủng loại phụ tùng đơn giản, có hàm lượng công nghệ thấp như gương, kính, ghế ngồi, bộ dây điện, ắc quy, săm, lốp, sản phẩm nhựa... Chỉ một số ít doanh nghiệp đầu tư dây chuyên dập thân, vỏ xe. Chưa tạo được sự hợp tác - liên kết và chuyên môn hoá giữa các doanh nghiệp trong sản xuất - lắp ráp ô tô và sản xuất phụ tùng linh kiện. Chưa hình thành được hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện quy mô lớn.

      đ. Đối với ngành cơ khí chế tạo:

  • Giai đoạn đầu 2007 - 2010:

Mục tiêu quy hoạch đề ra là đến năm 2010 đáp ứng 50% nhu cầu nội địa về phôi đúc, rèn và chi tiết quy chuẩn. Tuy nhiên, trong giai đoạn này tỷ lệ đáp ứng của ngành cơ khí đối với các sản phẩm này chỉ đạt khoảng 20%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu Quy hoạch đề ra.

  • Giai đoạn từ năm 2010 đến nay:

Đối với máy kéo: Đã sản xuất được máy kéo 2 bánh công suất 22 - 26 mã lực, đáp ứng nhu cầu trong nước (với tỷ lệ nội địa hóa đến 90%). Mới sản xuất được máy kéo 4 bánh cỡ trung công suất 22 - 26 mã lực (với tỷ lệ nội địa hóa đến 90%), chưa đạt mục tiêu sản xuất được máy kéo 4 bánh công suất 50-80 mã lực.

Đối với máy nông nghiệp: Một số doanh nghiệp như Tổng Công ty Veam; Sinco, Bùi Văn Ngọ, Cơ khí VINA Nha Trang đã đáp ứng nhu cầu trong nước về các loại máy nông nghiệp và phụ tùng cho các loại máy: máy xay xát lúa gạo, cà phê, máy sấy, máy canh tác. Tuy nhiên chúng ta chưa đạt mục tiêu xây dựng chuyên ngành chế tạo máy nông nghiệp đủ mạnh, bao gồm máy canh tác, máy chế biến và thiết bị bảo quản các sản phẩm nông nghiệp, nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước, từng bước xuất khẩu.

Đối với máy công cụ: Tới nay, trong nước mới chỉ sản xuất được các loại máy công cụ cơ bản (máy tiện, phay bào, mài, khoan.) với phân lớn hệ thống điều khiển tích hợp từ sản phẩm nhập khầu; chưa thiết kế, chế tạo được các loại máy công cụ CNC hoàn chỉnh để đáp ứng nhu cầu của ngành cơ khí.

Đối với cơ khí xây dựng: Hiện nay Việt Nam chưa chế tạo được các loại máy xây dựng có độ phức tạp cao, hiện đại mà thị trường trong nước và nước ngoài có nhu cầu như: máy xúc, máy ủi, máy đào máy san...

Đối với thiết bị điện: Đã sản xuất được máy biến áp đến 500MVA và các thiết bị trạm biến áp đến 220kV, cơ bản đáp ứng mục tiêu đề ra...

........................

Toàn bộ văn bản trả lời chất vấn xin xem tại file đính kèm./.

Cổng Thông tin điện tử Quốc hội

Các bài viết khác