ĐẠI BIỂU VƯƠNG THỊ HƯƠNG – ĐBQH TỈNH HÀ GIANG: QUY ĐỊNH CHẶT CHẼ, KHẢ THI, BẢO ĐẢM LUẬT ĐƯỢC THI HÀNH NGHIÊM

27/11/2023

Tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XV, Quốc hội cho ý kiến lần đầu đối với dự án Luật Lưu trữ (sửa đổi). Góp ý đối với dự án Luật, đại biểu Vương Thị Hương – Đoàn ĐBQH tỉnh Hà Giang đề nghị cần tiếp tục rà soát để rà soát, chỉnh sửa, bổ sung thêm một số nội dung cho đầy đủ, cụ thể, bảo đảm Luật được thực hiện nghiêm sau khi ban hành và khả thi.

THỂ CHẾ HÓA CÁC CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ LƯU TRỮ, ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ VÀ THỰC HIỆN CÁC NGHIỆP VỤ VỀ LƯU TRỮ

THẨM TRA DỰ ÁN LUẬT LƯU TRỮ (SỬA ĐỔI): LUẬT HÓA TỐI ĐA CÁC NỘI DUNG ĐÃ RÕ, ĐÃ ĐƯỢC KIỂM NGHIỆM, PHÁT HUY HIỆU QUẢ THỰC TẾ

Làm rõ đối tượng điều chỉnh của luật

Đại biểu Vương Thị Hương – Đoàn ĐBQH tỉnh Hà Giang

Đại biểu Vương Thị Hương cho biết qua nghiên cứu cho thấy dự thảo Luật không quy định về đối tượng áp dụng, trong khi Luật Lưu trữ hiện hành tại khoản 2 Điều 1 quy định về đối tượng áp dụng. Do vậy, đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét, kế thừa bổ sung thêm 01 điều vào dự thảo Luật Lưu trữ (sửa đổi) lần này quy định về đối tượng áp dụng để xác định rõ được các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hiện các quy định của luật này để đảm bảo được tính thống nhất, công khai, minh bạch trong thực hiện pháp luật.

Cụ thể, Luật này áp dụng đối với các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức chính trị xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân sau đây gọi chung là cơ quan, tổ chức và cá nhân.

Tại khoản 1, khoản 2 Điều 2 về giải thích từ ngữ quy định về tài liệu, tài liệu điện tử là thông tin được tạo ra trên phương tiện điện tử. Đại biểu cho biết hiện nay theo quy định tại khoản 7, Điều 3 của Luật Giao dịch điện tử có hiệu lực thi hành từ 1/7/2024 quy định “dữ liệu điện tử" là dữ liệu được tạo ra xử lý, lưu trữ bằng phương tiện điện tử. Như vậy có sự giống nhau về nguồn gốc giữa khái niệm "tài liệu, tài liệu điện tử" và "dữ liệu điện tử" do cùng được tạo ra bằng phương tiện điện tử. Vì vậy, đại biểu đề nghị là trong dự thảo Luật cũng phải có giải trình rõ hơn đối với các khái niệm này.

Liên quan đến quy định về hủy tài liệu hết giá trị, đại biểu nêu rõ, tại Khoản 1 Điều 15 dự thảo Luật quy định: việc hủy tài liệu được thực hiện đối với tài liệu lưu trữ hết giá trị và tài liệu không có giá trị lưu trữ. Theo đại biểu Vương Thị Hương, quy định như vậy là không thống nhất. Tài liệu không có giá trị lưu trữ không có nghĩa là tài liệu đó hết giá trị. Vì vậy, đề nghị bỏ cụm từ "tài liệu không có giá trị" tại Khoản 1, khoản 6 Điều 15.

Về nội dung yêu cầu thu thập tài liệu, tại khoản 8 Điều 17 có quy định: trường hợp tài liệu lưu trữ, lưu lưu trữ số có nội dung trùng với tài liệu lưu trữ giấy thì thu thập cả hai loại. Đại biểu đề nghị xem xét cân nhắc là chỉ nên chọn lưu trữ ít nhất là một trong hai loại tài liệu lưu trữ số hoặc là lưu trữ giấy để phù hợp với điều kiện thực tế về lưu trữ của cơ quan, tổ chức. Đại biểu cho biết thực tế không phải cơ quan, tổ chức nào cũng sắp xếp, bố trí được kho lưu trữ đủ để lưu trữ tài liệu giấy. Trong khi cả hai loại tài liệu này đều có giá trị sử dụng như nhau và chúng ta đang thực hiện đẩy mạnh triển khai công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số. Do đó, để tránh việc lưu trữ trùng lặp và mất diện tích nơi lưu trữ tài liệu, đại biểu đề nghị cân nhắc quy định là chỉ chọn lưu trữ ít nhất một loại tài liệu hoặc là giấy hoặc là số. Căn cứ vào điều kiện thực tiễn tổ chức, đơn vị nào mà có điều kiện thì thực hiện lưu trữ cả hai loại hình trên.

Bảo đảm quyền lợi chính đáng của tổ chức, cá nhân có tài liệu lưu trữ tư

Về hoạt động lưu trữ tư, đối với quyền của tổ chức, cá nhân trong hoạt động lưu trữ tư, tại Điều 46 quy định 07 nhóm quyền của tổ chức, cá nhân trong hoạt động lưu trữ tư. Đại biểu đề nghị cân nhắc bổ sung thêm quy định về quyền được thu phí sử dụng tài liệu lưu trữ khi cho tổ chức, cá nhân khác sử dụng (tương tự như tài liệu lưu trữ cơ quan, lưu trữ lịch sử như tại Điểm b, khoản 2, Điều 26 của dự thảo luật quy định về cơ quan, tổ chức, cá nhân khi sử dụng tài liệu lưu trữ có nghĩa vụ nộp phí sử dụng tài liệu lưu trữ).

Nội dung quy định nhà nước sử dụng có thời hạn tài liệu lưu trữ tư tại khoản 6 Điều 47 của dự thảo luật có quy định: trong trường hợp cần thiết Nhà nước được sử dụng có thời hạn tài liệu lưu trữ tư theo thỏa thuận. Theo đại biểu, để đảm bảo được quyền, lợi ích chính đáng của tổ chức, cá nhân có tài liệu lưu trữ tư, đề nghị cơ quan soạn thảo cũng bổ sung quy định thời hạn tối đa mà Nhà nước được sử dụng tài liệu lưu trữ tư là bao nhiêu ngày và xác định Nhà nước cũng phải trả phí trả cái tiền phí cho tổ chức, cá nhân có tài liệu lưu trữ tư này hay không? Nếu trả thì trả như thế nào? Bên cạnh đó, bổ sung quy định Nhà nước có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp làm mất, thất lạc, làm hư hỏng nghiêm trọng tài liệu lưu trữ tư.

Quản lý lưu trữ chặt chẽ

Về quản lý về lưu trữ tại Chương 8 gồm có 07 điều, từ Điều 58 đến Điều 64 quy định rất cụ thể về việc quản lý, quản lý về lưu trữ. Đại biểu đề nghị cơ quan soạn thảo rà soát, chỉnh sửa, bổ sung thêm một số nội dung cho đầy đủ, cụ thể.

Một là, dự thảo Luật Lưu trữ không chỉ quy định về phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam, tài liệu lưu trữ tư mà còn quy định về phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam, bao gồm toàn bộ tài liệu lưu trữ được hình thành trong quá trình phát triển, quá trì trình hoạt động của các cơ quan, tổ chức Đảng Cộng sản Việt Nam, tổ chức tiền thân của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội, các nhân vật lịch sử tiêu biểu của Đảng Cộng sản Việt Nam như tại Khoản 2, Điều 7 của dự thảo Luật. Tuy nhiên, Chương 8 chưa thấy có quy định cơ quan nào sẽ quản lý tài liệu lưu trữ của Đảng Cộng sản Việt Nam và việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực này như thế nào thì cũng đề nghị cơ quan soạn thảo xem xét bổ sung cho đầy đủ.

Các đại biểu Đoàn ĐBQH tỉnh Hà Giang trong phiên thảo luận tại Tổ

Hai là, trách nhiệm quản lý nhà nước về lưu trữ. Dự thảo Luật chưa có điều khoản nào quy định về hành vi vi phạm, hình thức xử lý và thẩm quyền xử lý đối với cái hành vi vi phạm thuộc hoạt động lưu trữ. Do vậy, Luật cũng cần có quy định giao Chính phủ ban hành văn bản quy định chi tiết về nội dung này để đảm bảo Luật được thực hiện nghiêm sau khi ban hành. Đồng thời, đề nghị cơ quan soạn thảo cũng chỉnh sửa, bổ sung thêm nội dung này vào khoảng 1 Điều 59 như sau: "Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về lưu trữ, quy định các hành vi vi phạm, thẩm quyền xử lý đối với các hành vi vi phạm hành chính thuộc hoạt động lưu trữ".

Đối với quy định về việc cấp chứng chỉ hành nghề lưu trữ, tại Điều 57 dự thảo Luật quy định: Những trường hợp không được cấp chứng chỉ hành nghề lưu trữ bao gồm người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh, cơ sở giáo dục, người đã bị kết án về một trong các tội phạm liên quan đến an ninh quốc gia, tội cố ý làm lộ bí mật công tác, tội chiếm đoạt, mua bán hoặc hủy toàn lại bí mật công tác. Theo đại biểu, dự thảo Luật cần bổ sung trường hợp không được cấp chứng chỉ hành nghề lưu trữ đối với người mất năng lực hành vi dân sự và người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi.

Đại biểu cho biết thêm, hiện nay theo Thông tư số 09/2014 của Bộ Nội vụ ngày 1/10/2014 có hướng dẫn về quản lý chứng chỉ hành nghề lưu trữ và hoạt động của dịch vụ lưu trữ quy định: chứng chỉ hành nghề lưu trữ có giá trị 05 năm kể từ ngày cấp. Trong khi đó, thì tại Khoản 3 của Điều 68 dự thảo Luật quy định: chứng chỉ hành nghề lưu trữ đang có hiệu lực được tiếp tục sử dụng đến hết ngày 31/12/2026 và được cấp lại sau khi tham gia bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ do đơn vị có thẩm quyền tổ chức theo quy định của luật này. Theo đại biểu, để tạo điều kiện thuận lợi cho những người đang có chứng chỉ hành nghề hiện nay vẫn còn giá trị theo Thông tư 09/2014/TT-BNV của Bộ Nội vụ và để tránh việc phải tổ chức nhiều kì thi gây tốn kém, đề nghị cơ quan soạn thảo quy định lại các trường hợp được cấp chứng chỉ hành nghề lưu trữ đang có hiệu lực theo hướng mở hơn. Cụ thể là tại Khoản 3, Điều 68 có thể quy định như sau: "Chứng chỉ hành nghề lưu trữ đang có hiệu lực được tiếp tục sử dụng cho đến khi hết hiệu lực và được cấp lại sau khi tham gia bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ do đơn vị có thẩm quyền tổ chức theo quy định của luật này".

Bảo Yến

Các bài viết khác