BỘ TRƯỞNG BỘ TÀI CHÍNH BỔ SUNG, LÀM RÕ MỘT SỐ NỘI DUNG ĐẠI BIỂU NÊU LIÊN QUAN ĐẾN DỰ TOÁN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

14/01/2021

Trong phiên thảo luận về tình hình thực hiện ngân sách Nhà nước năm 2020; dự toán ngân sách Nhà nước năm 2021 và kế hoạch tài chính ngân sách Nhà nước 5 năm 2021-2025 tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khóa XIV, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã báo cáo bổ sung, một số nội dung đại biểu quan tâm liên quan đến dự toán ngân sách Nhà nước năm 2021 và những năm tiếp theo.

Trong phiên thảo luận tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XIV, giải trình về các nội dung đại biểu quan tâm, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng nghiêm túc tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội về đánh giá tình hình thực hiện ngân sách Nhà nước năm 2020; dự toán ngân sách Nhà nước năm 2021 và kế hoạch tài chính ngân sách Nhà nước 5 năm 2021-2025. Bộ trưởng cũng báo cáo bổ sung, làm rõ một số nội dung, tập trung vào 4 nhóm vấn đề:

Vấn đề thứ nhất là dự toán ngân sách Nhà nước năm 2020.

Vấn đề thứ hai là đánh giá kế hoạch tài chính ngân sách 5 năm 2016-2020.

Vấn đề thứ ba là dự toán ngân sách Nhà nước năm 2021.

Vấn đề thứ tư là dự thảo kế hoạch tài chính ngân sách 5 năm 2021-2025.

Năm 2020, Bộ Tài chính đã ban hành theo thẩm quyền 21 thông tư về giảm, miễn các loại phí và lệ phí.

Báo cáo về dự toán ngân sách Nhà nước năm 2020, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, dự toán thu ngân sách Nhà nước năm 2020 được xây dựng trên tinh thần quyết tâm cao, hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước 5 năm giai đoạn 2016-2020. Theo đó, dự toán được xây dựng trên cơ sở dự kiến tăng trưởng kinh tế 6,8%, giá dầu thô là 60 USD/thùng, lạm phát dưới 4%, kim ngạch xuất khẩu tăng 7%, kim ngạch nhập khẩu tăng 9%. Từ đó, tốc độ tăng thu nội địa từ sản xuất, kinh doanh trên 10% so với thực hiện năm 2019. Trong điều kiện thực hiện thu năm 2019 tăng rất cao, vượt 9,9% so với dự toán, bằng 139.700 tỷ đồng, tăng cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Tuy nhiên, bước vào năm 2020, đại dịch COVID-19 đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến đầu tư, thương mại và tài chính toàn cầu. Trong điều kiện Việt Nam đã hội nhập kinh tế sâu rộng, vì vậy ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 là rất lớn, trên hầu hết các ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và triển khai kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2020 của Việt Nam. Bên cạnh đó, như nhiều ý kiến đại biểu đã nêu, diễn biến bất thường của thiên tai ngay từ đầu năm như mưa đá, lũ ống, lũ quét ở các tỉnh miền núi phía Bắc, hạn hán, xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long, mưa lũ, ngập, lụt ở các tỉnh miền Trung đã gây thiệt hại lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của nhân dân.

Trước những khó khăn do thiên tai và dịch bệnh, quán triệt sâu sắc các chủ trương của Đảng, Nhà nước về thực hiện mục tiêu kép, vừa tập trung phòng, chống dịch vừa phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, Chính phủ đã trình Quốc hội và ban hành theo thẩm quyền nhiều giải pháp, chính sách tài khóa để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đảm bảo an sinh xã hội, như: tiếp tục miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp, giảm 30% thuế thu nhập doanh nghiệp cho doanh nghiệp có doanh thu dưới 200.000 tỷ đồng; giảm 30% thuế bảo vệ môi trường đối với nhiệt độ bay; nâng mức giảm trừ gia cảnh thuế thu nhập cá nhân; giảm tiền thuê đất; gia hạn thời gian nộp thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp và tiền thuê đất; gia hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt đối với ôtô sản xuất trong nước và giảm 50% lệ phí trước bạ đối với ôtô sản xuất trong nước.

Bộ Tài chính đã ban hành theo thẩm quyền 21 thông tư về giảm, miễn các loại phí và lệ phí. Đến nay, các chính sách trên đã góp phần giảm, giãn khoảng 100.000 tỷ đồng nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước, giúp cho doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về dòng tiền và tăng tích tụ vốn cho doanh nghiệp.

Với tinh thần đó, số thu ngân sách Nhà nước 10 tháng năm 2020 đã phản ánh khá rõ những khó khăn của doanh nghiệp và tác động của các chính sách miễn, giảm thuế, phí. Cụ thể, thực hiện thu ngân sách nhà nước 10 tháng đạt 75,2% dự toán, giảm 10,3% so với cùng kỳ năm 2019 và là mức thấp nhất trong 10 năm gần đây, trong đó ngân sách Trung ương đạt 70% và ngân sách địa phương đạt 81% dự toán. Một số địa phương có số thu lớn, có điều tiết về ngân sách Trung ương nhưng thực hiện 10 tháng rất là thấp. Cụ thể: Hà Nội 70,1%, thành phố Hồ Chí Minh đạt 64,8%, Vĩnh Phúc 60,8%, Đà Nẵng 56,4%, Quảng Nam 45,5%, Khánh Hòa 58,8%.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng  báo cáo bổ sung, một số nội dung đại biểu quan tâm liên quan đến dự toán ngân sách Nhà nước năm 2021 và những năm tiếp theo.

Bên cạnh việc triển khai các giải pháp hỗ trợ miệng miễn, giảm, giãn thuế cho doanh nghiệp, Bộ Tài chính cũng chỉ đạo cơ quan thuế, hải quan tăng cường quản lý thu, chống thất thu và chống chuyển giá. Trong 10 tháng năm 2020 đã thực hiện 48,90 nghìn cuộc thanh tra và kiểm tra và kiểm tra hơn 436.000 hồ sơ khai thuế tại cơ quan thuế, kiến nghị xử lý 39.684 tỷ đồng. Trong đó thu vào ngân sách Nhà nước 13.267 tỷ đồng, giảm khấu trừ 1.187 tỷ đồng, giảm lỗ 25.229 tỷ đồng. Đồng thời, đã thanh tra, kiểm tra sau hoàn thuế giá trị gia tăng và phạt 117 tỷ đồng. Trong 9 tháng năm 2020, cơ quan thuế đã thu hồi được 20.292 tỷ đồng tiền nợ đọng thuế từ năm 2019 chuyển sang.

Đối với đánh giá năm 2020, Bộ Tài chính đã rà soát, làm việc rất kĩ với các địa phương trên cơ sở dự kiến tăng trưởng kinh tế là 2 đến 3% so với kế hoạch của chúng ta, ban đầu là 6,8%. Bộ Tài chính ước thu ngân sách Nhà nước năm 2020 giảm khoảng 190.000 tỷ đồng bằng 12,5% so với dự toán. Trong bối cảnh đó, Việt Nam vẫn phải tăng chi cho phòng chống thiên tai, dịch bệnh và hỗ trợ thêm về an sinh xã hội. Đến hết tháng 11/2020, ngân sách nhà nước đã chi khoảng 19.000 tỷ đồng cho công tác phòng chống và hỗ trợ người dân do đại dịch COVID-19 từ nguồn tăng thu, tiết kiệm chi năm 2019 chuyển sang. Đồng thời, ngân sách nhà nước cũng đã chi khoảng 12.500 tỷ đồng hỗ trợ các hộ chăn nuôi bị ảnh hưởng bởi dịch tả lợn Châu Phi.

Đối với công tác hỗ trợ khắc phục thiên tai và bão, lũ, Chính phủ đã hỗ trợ 382 tỷ đồng cho 11 địa phương miền núi phía Bắc để khắc phục hậu quả thiên tai mưa đá, giông lốc, sạt lở đất, hỗ trợ 530 tỷ đồng cho 8 địa phương vùng đồng bằng sông Cửu Long để khắc phục hạn hán và xâm nhập mặn.

Đối với ảnh hưởng của lũ miền Trung - Tây Nguyên, trong tháng 10/2020, bước đầu ngân sách Trung ương đã hỗ trợ 500 tỷ đồng cho 5 địa phương miền Trung, đồng thời có cơ chế hỗ trợ thiệt hại về nhà ở do tác động của thiên tai, bão, lũ gây ra trong tháng 10/2020 cho người dân một số tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Theo đó, dự kiến ngân sách Trung ương sẽ hỗ trợ thêm khoảng 1.000 tỷ đồng, theo dự kiến của phương án là hỗ trợ 40 triệu đồng cho 1 hộ có nhà bị sập, đổ, trôi hoàn toàn và 10 triệu đồng cho hộ có nhà ở hư hỏng nặng.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cũng đồng tình với đại biểu Vũ Thị Lưu Mai, Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hà Nội và một số đại biểu đề xuất phải rà lại dự toán chi đầu tư xây dựng cơ bản năm 2021 và giai đoạn 2021-2025, cần có ưu tiên gói đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội vùng thiệt hại nặng do thiên tai và bão lũ.

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nhấn mạnh, trong điều kiện thu ngân sách Nhà nước giảm, một số khoản chi phát sinh tăng lớn như đã nêu trên, nên để đảm bảo cân đối ngân sách nhà nước, một mặt yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục tiết kiệm chi. Chúng ta đã cắt giảm tối thiểu 70% công tác phí trong và ngoài nước, tiết kiệm thêm 10% kinh phí thường xuyên ngoài lương và các khoản tiết kiệm khác. Theo thống kê của chúng tôi hiện nay được khoảng 17.400 tỷ đồng. Mặt khác, Chính phủ cũng đề xuất Quốc hội cho phép tăng bội chi ngân sách nhà nước năm 2020, từ khoảng 95.000 đến 133.500 tỷ đồng, tương ứng với tỷ lệ bội chi là 4,99 đến 5,59% GDP. Nếu phương án này được thông qua thì nợ công cuối năm 2020 của Việt Nam sẽ khoảng 56,8 đến 57,4% GDP.

Đánh giá chung năm 2020, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho rằng, việc triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước chịu tác động nghiêm trọng bởi đại dịch COVID-19, thiên tai, dịch bệnh nhưng nhờ dư địa tài khóa chúng ta tích lũy được qua 4 năm 2016-2019 do thực hiện tái cơ cấu lại ngân sách Nhà nước, quản lý an toàn nợ công theo tinh thần Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 25 của Quốc hội về kế hoạch tài chính, ngân sách Nhà nước 5 năm 2016-2020, nên Việt Nam vẫn đảm bảo được yêu cầu chi tiêu cho nhiệm vụ quan trọng, kể cả nhiệm vụ cấp bách phát sinh do thiên tai, dịch bệnh, cho quốc phòng, an ninh và đảm bảo nguồn cho đầu tư phát triển theo dự toán năm 2020. Dự toán đặt ra là 470.600 tỷ đồng, nếu tính cả các nguồn năm trước chuyển sang thì năm nay Việt Nam phải giải ngân 630.000 tỷ đồng để kích cầu trong nước, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế trong trung và dài hạn tới đây. Đây có thể coi là điểm sáng của công tác tài chính ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2016-2020.

Cơ bản đạt các mục tiêu về tài chính, ngân sách theo tinh thần Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 25 của Quốc hội.

Về đánh giá kế hoạch tài chính 5 năm 2016-2020, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho biết, kết quả thực hiện phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước năm 2020 ảnh hưởng lớn đến kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm 2016-2020. Về kinh tế, nếu tăng trưởng GDP năm 2020 đạt 2 đến 3% thì bình quân 5 năm 2016-2020 đạt 5,8 đến 5,9%, trong khi chỉ tiêu đề ra là 6,5 đến 7%.

Về ngân sách Nhà nước, dự kiến thu ngân sách Nhà nước năm 2020 giảm khoảng 190.000 tỷ đồng so với dự toán thu 5 năm ước giảm khoảng 150.000 tỷ đồng so với kế hoạch. Tuy nhiên, nhìn về tổng thể, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho rằng đến nay chúng ta cơ bản đạt được các mục tiêu về tài chính, ngân sách theo tinh thần Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 25 của Quốc hội. Cụ thể: Về tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước đạt 24,5%, kế hoạch đề ra là 23,5%. Cơ cấu thu chi chuyển dịch tích cực, tỷ trọng thu nội địa trong tổng thu ngân sách nhà nước tăng từ mức 68% của giai đoạn 2011-2015 lên mức 80,9% của giai đoạn 2016-2019 và ước đạt 84,3% trong năm 2020. Mục tiêu đề ra của nước ta đặt ra là 84%-85%. Bố trí tỷ trọng chi dự toán đầu tư phát triển tăng dần lên mức 26,9% trong năm 2020, thực tế thực hiện đạt 27%-28%, mục tiêu đề ra của chúng ta là 25%-26%. Tỷ trọng chi thường xuyên giảm xuống 60,5% trong dự toán năm 2020. Mục tiêu là thấp hơn 64%, trong khi vẫn đảm bảo nguồn thực hiện điều chỉnh lương cơ sở, các nhiệm vụ quan trọng quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội và phòng, chống thiên tai, dịch bệnh. Tỷ lệ bội chi ngân sách nhà nước khoảng 3,8% GDP. Mục tiêu cả giai đoạn thấp hơn 3,9% GDP. Nợ công giảm từ mức 63,7% năm 2016 xuống còn 55% năm 2019 và lên 56,8% năm 2020.

Làm rõ thêm ý kiến của Đại biểu Nguyễn Minh Sơn, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Tiền Giang, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, các chỉ tiêu về chất lượng nợ công thời gian qua đã được cải thiện rất lớn. Tốc độ tăng nợ công của giai đoạn 2011-2015 là 18,1%, bằng 3 lần tăng trưởng kinh tế, đến giai đoạn 2016-2019 giảm còn bằng 6,8%, tương đương với tốc độ tăng trưởng kinh tế. Riêng năm 2020, ước tăng khoảng 10% so với năm 2019. Cơ cấu nợ vay trong nước, nước ngoài được điều chỉnh theo hướng bền vững hơn, tức là tăng vay trong nước, kỳ hạn phát hành, kỳ hạn danh mục trái phiếu Chính phủ được tăng lên, trong khi lãi suất vay giảm rất sâu, góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. 10 tháng năm 2020, Bộ đã phát hành 270.000 tiền trái phiếu Chính phủ với kỳ hạn bình quân là 13 năm, lãi suất rất thấp (2,95%).

Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng đồng tình với quan điểm của Đại biểu Nguyễn Minh Sơn và Đại biểu Trương Trọng Nghĩa, Đoàn Đại biểu Quốc hội TP. Hồ Chí Minh, mặc dù tỷ lệ nợ công so với GDP thời gian qua có giảm nhưng quy mô nợ, số tuyệt đối vẫn tăng. Nghĩa vụ trả nợ cả gốc và lãi so với tổng thu ngân sách nhà nước năm nay và một vài năm tới tăng cao, khối lượng phải huy động hằng năm lớn, tạo rủi ro về an ninh, tài chính. Điều này một mặt đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục quyết liệt cơ cấu lại ngân sách nhà nước và nợ công theo hướng bền vững hơn. Mặt khác, phải nâng cao hơn nữa hiệu quả đồng vốn, chúng ta vay về cho đầu tư phát triển.

Tác động của đại dịch COVID-19 tiếp tục ảnh hưởng đến thu ngân sách Nhà nước năm 2021 và những năm tiếp theo.

Vấn đề thứ ba được Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng giải trình trước Quốc hội là về dự toán năm 2021. Bộ trưởng cho biết, mặc dù có nhiều dự báo tích cực, nhưng chúng tôi cho rằng sự phục hồi kinh tế thế giới và phụ thuộc vào khả năng kiểm soát của dịch COVID-19 trong nước, bên cạnh những thuận lợi cơ bản như ổn định chính trị, môi trường đầu tư kinh doanh tiếp tục được cải thiện. Cơ hội đến từ các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, sự đồng thuận cao của các cấp, các ngành, doanh nghiệp và nhân dân cả nước. Nhưng bên cạnh đó, trong năm 2021 vẫn phải yêu cầu duy trì mục tiêu kép, vừa tập trung cho công tác phòng, chống dịch, vừa thúc đẩy phát triển kinh tế trong bối cảnh tác động của biến đổi chính trị, kinh tế thế giới, biến đổi khí hậu, dịch bệnh ngày càng lớn. Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho biết, trên cơ sở đánh giá sát khả năng thu ngân sách của từng địa phương năm 2020, dự báo kinh tế thế giới, dự toán thu ngân sách trên cơ sở GDP tăng 6%, lạm phát dưới 4%, giá dầu thô 45 USD/thùng. Mặt khác, tác động của đại dịch COVID-19 đến phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách Nhà nước không chỉ dừng trong năm 2020 mà còn sang năm 2021, thậm chí có thể một số năm tiếp theo. Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng nhận định, trong các năm 2012, 2013, 2014 khi kinh tế suy giảm thì tốc độ tăng thu nội địa từ sản xuất, kinh doanh chỉ bằng 1/2 tốc độ tăng trưởng GDP.

Bộ Tài chính dự kiến tốc độ tăng thu nội địa từ sản xuất, kinh doanh năm 2021 là 5,6%.

Trên cơ sở đó, sau khi làm việc kỹ với các địa phương, Bộ Tài chính đã dự kiến tốc độ tăng thu nội địa từ sản xuất, kinh doanh năm 2021 là 5,6% so với ước thực hiện năm 2020 là mức khá tích cực trong điều kiện còn nhiều rủi ro. Tuy nhiên, dự toán thu ngân sách năm 2021 là 1.340.000 tỷ đồng giảm 170.000 tỷ đồng so với dự toán năm 2020. Tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước là 15,5% GDP, trong đó từ thuế, phí là 13% GDP điều chỉnh, tương đương với mức 19,7 và 16,6% GDP chưa điều chỉnh.

Trước tình hình trên, để có thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội và kích cầu trong nước, Chính phủ đề xuất bội chi ngân sách Nhà nước năm 2021 là 4% GDP, tương ứng với 5% GDP chưa điều chỉnh, tăng 1,5% so với dự toán năm 2020 và tăng thêm 109.000 tỷ đồng. Bội chi ngân sách Nhà nước chỉ dành cho đầu tư phát triển, không dành cho chi thường xuyên. Khi đó, nợ công năm 2021 sẽ là 46,1% GDP chưa điều chỉnh, tương ứng với 58,6% GDP chưa điều chỉnh.

Bộ trưởng Bộ Tài chính nhấn mạnh, tổng hợp dự toán thu 2021 và bội chi năm 2021 thì tổng chi ngân sách nhà nước năm 2021 vẫn giảm khoảng 60.000 tỷ đồng so với dự toán năm 2020 và được dự kiến bố trí như sau: Ưu tiên bố trí tăng chi đầu tư phát triển để đạt tỷ trọng 28,3% tổng chi ngân sách nhà nước. Dự toán năm 2020 chỉ có 26,9%, bố trí chi trả nợ lãi và dự phòng theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước, dành nguồn ưu tiên cho các chương trình mục tiêu quốc gia, trong đó ưu tiên thực hiện các chính sách cho đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, khi đó chi thường xuyên năm 2021 giảm 56.000 tỷ đồng so với dự toán năm 2020. Vì vậy, yêu cầu trong năm 2021 như đại biểu Dương Văn Thống, Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Yên Bái và một số đại biểu phát biểu, chúng ta phải triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, đồng thời thực hiện đồng bộ có hiệu quả các nghị quyết của Trung ương, của Quốc hội về tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, đẩy mạnh xã hội hóa các đơn vị sự nghiệp công lập.

Dự kiến tổng thu ngân sách Nhà nước giai đoạn 2021-2030 khoảng 7,8 triệu tỷ đồng, gấp 1,2 lần so với giai đoạn 2016-2020.

Báo cáo trước Quốc hội về dự kiến kế hoạch tài chính ngân sách nhà nước 5 năm giai đoạn 2021-2025, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, trên cơ sở dự toán ngân sách Nhà nước năm 2021 trình Quốc hội, mục tiêu tăng trưởng kinh tế của giai đoạn 2021-2025 bình quân khoảng 6,5 đến 7% (Theo Dự thảo Báo cáo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2030 trình Đại hội 13 của Đảng), Chính phủ dự kiến tổng thu ngân sách Nhà nước giai đoạn 2021-2030 khoảng 7,8 triệu tỷ đồng, gấp 1,2 lần so với giai đoạn 2016-2020. Tỷ lệ huy động vào ngân sách Nhà nước bình quân khoảng 15-16% GDP, trong đó từ thuế, phí khoảng 13-14%, giảm so với giai đoạn 2016-2020 là 24,5% và 20,4% GDP chưa điều chỉnh, chủ yếu là do từ năm 2021 chúng ta điều chỉnh quy mô GDP tăng lên từ khoảng 25 đến 27% so với mức hiện hành. Nếu tính theo GDP hiện hành, mức huy động vào ngân sách nhà nước của giai đoạn 2021-2025 khoảng 19 đến 20%, trong đó từ thuế, phí là 16 - 17%.

Bên cạnh đó, giai đoạn tới dự kiến thu từ đất và hoạt động xuất, nhập khẩu cơ bản ngang bằng với giai đoạn 2016-2020, thu từ dầu thô chỉ bằng 1/2 của giai đoạn 2016-2020, chỉ chiếm 3,3% GDP điều chỉnh của giai đoạn 2021-2025. Mặc dù vậy, mức độ huy động từ thuế, phí bình quân 5 năm đạt 13-14% GDP điều chỉnh. Theo đánh giá của Bộ Tài chính với mục tiêu này cơ bản tương ứng với mức huy động của các nước ASEAN-5. Cơ cấu thu tiếp tục được cải thiện, tỷ trọng thu nội địa bình quân chiếm 85-86% tổng thu ngân sách nhà nước. Thu cân đối từ hoạt động xuất, nhập khẩu chiếm 12,7%, thu từ dầu thô còn 1,4% tổng thu ngân sách nhà nước, trong khi giai đoạn 2011-2015 thu dầu thô là 12,7%, giai đoạn 2016-2020 còn 3,6%, giai đoạn 2021-2025 còn 1,4% tổng thu ngân sách nhà nước.

Kế hoạch năm 2021-2025 được dự kiến trên tinh thần phấn đấu rất tích cực. Tốc độ tăng thu nội địa từ sản xuất, kinh doanh bình quân là 8%/1 năm, trong đó giai đoạn 2023-2025 là 10%/1năm trong bối cảnh tiềm ẩn nhiều rủi ro của kinh tế thế giới, đại dịch COVID-19 và cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn. Trong nước, bên cạnh các yếu tố thuận lợi còn tiềm ẩn nhiều rủi ro về thiên tai và dịch bệnh.

Để đáp ứng yêu cầu chi phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và giảm dần bội chi ngân sách Nhà nước, Bộ Tài chính kiến nghị tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về thu ngân sách Nhà nước, gắn với cải cách lại ngân sách Nhà nước theo hướng bao quát các nguồn thu, mở rộng cơ sở thu, nhất là các nguồn thu mới, phù hợp với thông lệ quốc tế.

Đảm bảo tỷ trọng thu nội địa, tỷ trọng giữa thuế trực thu và thuế gián thu ở mức hợp lý. Khai thác tốt thuế tài sản, tài nguyên, bảo vệ môi trường. Hạn chế tối đa việc lồng ghép các chính sách an sinh xã hội trong các sắc thuế và chính sách miễn, giảm, giãn thuế, đảm bảo tính trung lập của thuế, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, công bằng, khuyến khích đầu tư phát triển. Đồng thời, phải tiếp tục xây dựng chính sách phân cấp ngân sách để đảm bảo vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương trong điều kiện 2 khoản thu ngân sách Trung ương hưởng 100% là thu từ dầu thô chỉ bằng 1/2, thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu cơ bản đi ngang so với giai đoạn 2016-2020. Đồng thời, cần nghiên cứu giảm dần cơ chế lồng ghép ngân sách để đảm bảo tính chủ động của ngân sách địa phương.

Về chi ngân sách Nhà nước, Bộ trưởng Bộ Tài Chính Đinh Tiến Dũng cho biết, dự kiến 5 năm tới tổng chi ngân sách Nhà nước là 9,7 triệu tỷ đồng, gấp 1,3 lần giai đoạn 2016-2020, trong đó chi đầu tư phát triển là 2,75 triệu tỷ đồng, chiếm 27-28% tổng chi ngân sách Nhà nước, nhằm hỗ trợ nền kinh tế khôi phục sau đại dịch COVID-19. Chi thường xuyên triệt để tiết kiệm, đảm bảo cho các chế độ, chính sách, chi cho con người, chi cho an ninh, quốc phòng, chi phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số, các dịch vụ công thiết yếu. Đồng thời, quyết liệt thực hiện các nghị quyết của Trung ương, Quốc hội về sắp xếp, tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, đẩy mạnh đổi mới sự nghiệp công lập thì chi thường xuyên bình quân còn lại khoảng 62%-63% tổng chi ngân sách Nhà nước. Bội chi ngân sách nhà nước bình quân của giai đoạn khoảng 3,7% GDP và giảm dần, trong đó năm 2021 dự kiến là 4% và đến năm 2025 giảm còn 3,4% GDP. Nợ công đến 2025, ước khoảng 47,5% GDP điều chỉnh tương ứng với khoảng 60,4% GDP chưa điều chỉnh. Tổng mức vay của ngân sách Nhà nước giai đoạn 2021-2025 là 3,18 triệu tỷ đồng, trong đó vay bù đắp bội chi là 1,9 triệu tỷ đồng và vay trả nợ gốc đến hạn là 1,27 triệu tỷ đồng. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ, có năm có thể vượt 25% tổng thu ngân sách Nhà nước và là rủi ro trong việc huy động vốn hằng năm để bù đắp bội chi và trả nợ gốc của Chính phủ. Đây là dự thảo kế hoạch tài chính ngân sách Nhà nước 5 năm với tinh thần quyết tâm cao, Chính phủ trình Quốc hội cho ý kiến và Chính phủ đã nghiên cứu, tiếp thu, điều chỉnh lại sau Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng và báo cáo với Quốc hội khóa XV.

Bộ trưởng Bộ Tài chính cũng cho biết thêm, Việt Nam đã ký trên 80 hiệp định tránh đánh thuế 2 lần với các nước và tại Điều 24 của Hiệp định quy định không phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Đồng thời, theo cam kết WTO, nguyên tắc đối xử quốc gia, cấm phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong nước về thuế. Nguyên tắc đối xử quốc gia này được xác định tại Điều 3 hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch. Tại Điều 17 Hiệp định chung về thương mại, dịch vụ và Điều 3 của hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Bộ Tài chính hiện đã tiếp thu ý kiến của các doanh nghiệp, cộng đồng doanh nghiệp và Chính phủ đã ban hành Nghị định 68 sửa đổi Nghị định 20 và Thủ tướng Chính phủ cũng đã ký Nghị định 20 mới thay Nghị định 68, Nghị định 20 trước kia hướng dẫn Luật Quản lý thuế./.

Lan Hương