25/04/2018
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn đã có văn bản trả lời chất vấn Đại biểu Quốc hội Nguyễn Tạo, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng về các giải pháp kiểm soát, hạn chế thông tin xấu, độc hại trên mạng xã hội và chiến lược của ngành trong tương lai nhằm khắc phục tình trạng trên.
Đại biểu Quốc hội Nguyễn Tạo - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng
Ngày 15/11/2017, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn đã có văn bản trả lời chất vấn Đại biểu Quốc hội Nguyễn Tạo, Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng về các giải pháp kiểm soát, hạn chế thông tin xấu, độc hại trên mạng xã hội và chiến lược của ngành trong tương lai nhằm khắc phục tình trạng trên.
Nội dung chất vấn của Đại biểu Quốc hội Nguyễn Tạo - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Lâm Đồng như sau:
Hiện nay, cùng với sự phát triển của Internet, mạng xã hội đang là một trong những cách thức lan truyền thông tin rất nhanh, bên cạnh những kênh truyền thông, báo chí chính thống thông tin đúng đắn, kịp thời tình hình chính trị, kỉnh tế và mọi mặt đời sổng của xã hội đến các tầng lớp nhân dân, cộng đồng xã hội. Bên cạnh đó nhiều thông tin phản động, độc hại, phản cảm vẫn đang tồn tại và lan truyền trên mạng xã hội, nhất là những trang mạng xã hội có máy chủ đặt ở nước ngoài. Bộ Thông tin và Truyền thông đã có nhiều cổ gắng trong việc quản lý, kiểm soát tình trạng này nhưng hiệu quả đạt được vẫn chưa như mong muốn. Kính đề nghị Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết Bộ đã có những giải pháp gì đế kiếm soát, hạn chế thông tin xẩu, độc hại trên mạng xã hội, nhất là những trường hợp máy chủ đặt ở nước ngoài; chiến lược của Ngành trong tương lai nhằm khắc phục dần thực trạng nêu trên?
Về vấn đề Đại biểu nêu, Bộ Thông tin và Truyền thông trả lời như sau:
Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Trương Minh Tuấn
Nội dung thông tin trên mạng hiện nay được cung cấp bởi hai nguồn: Thứ nhất là từ các cơ quan báo chí chính thống (gồm báo chí in, báo chí điện tử và phát thanh, truyền hình) và thứ 2 là từ truyền thông xã hội. Với hai nguồn cung cấp như trên, tác động của từng nguồn đối với xã hội cũng khác nhau.
Việc quản lý cơ quan báo chí chính thống có các quy định của pháp luật, cụ thể là Luật Báo chí, các văn bản hướng dẫn và các văn bản liên quan.
Đối với các thông tin được cung cấp bởi loại hình truyền thông xã hội thì được chia làm hai loại:
Các thông tin tiêu cực như thông tin sai lệch, xuyên tạc, nói xấu, bôi nhọ, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của tổ chức, cá nhân, thông tin phản cảm, vi phạm thuần phong mỹ tục Việt Nam, kêu gọi kích động biểu tình, chống phá nhà nước... chủ yếu tồn tại trên các mạng xã hội nước ngoài gây thiệt hại về kinh tế, tổn hại danh dự, nhân phẩm của tổ chức, cá nhân và gây hoài nghi, hoang mang trong dư luận xã hội. Nguyên nhân là do nhận thức của người sử dụng cho rằng mạng xã hội là môi trường ảo nên có thể tự do phát ngôn mà không phải chịu trách nhiệm. Ngoài ra, trước đây các trang mạng xã hội nước ngoài cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam gần như chưa bị điều chỉnh bởi các quy định của pháp luật Việt Nam dẫn đến tình trạng việc theo dõi, xử lý các thông tin vi phạm còn gặp khó khăn do có sự khác biệt về môi trường pháp lý.
Trong thời gian qua, Bộ Thông tin và Truyền thông đã triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp nhằm tăng cường quản lý nội dung thông tin trên mạng, đấu tranh ngăn chặn các thông tin xấu độc, vi phạm pháp luật, như:
Hiện nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đang tham mưu Chính phủ sửa đổi, bổ sung Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng, thay thế Nghị định số 159/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực báo chí, xuất bản và Nghị định số 174/2013/NĐ-CP 'quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện.
Từ năm 2016 đến nay, Bộ Thông tin và Truyền thông đã chỉ đạo các đơn vị chức năng tăng cường xử lý các đối tượng có hành vi sai phạm, phát ngôn thiếu chuẩn mực trên mạng xã hội.
Trong trường hợp xác định được nhân thân của đối tượng cung cấp thông tin vi phạm các quy định hiện hành thì tuỳ theo mức độ, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ áp dụng hình thức xử lý kịp thời thông qua việc xử phạt vi phạm hành chính và biện pháp kỹ thuật, áp dụng theo quy định tại Nghị định số 174/2013/NĐ-CP ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, công nghệ thông tin và tần số vô tuyến điện. Trường họp vi phạm mức độ nhẹ thì nhắc nhở, rút kinh nghiệm, trường hợp vi phạm ở mức độ nặng có thể xem xét xử phạt vi phạm hành chính, thu hồi giấy phép, thu hồi tên miền, v.v...
Trong trường hợp không xác định được nhân thân của tố chức, cá nhân vi phạm thì Bộ gửi yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ như Google, Youtube, Facebook,... thực hiện các biện pháp ngăn chặn, gỡ bỏ theo quy định tại Thông tư số 38/2016/TT-BTTTT.
Google và Facebook đồng ý thiết lập cơ chế riêng cho phép Bộ Thông tin và Truyền thông được quyền yêu cầu gỡ bỏ nhiều nội dung vi phạm trong một lần thông báo; Google cam kết dừng trả tiền quảng cáo cho chủ sở hữu các video clip đăng tải trên trang Youtube bị Chính phủ Việt Nam thông báo vi phạm.
Tính đến tháng 10 năm 2017, Google đã ngăn chặn, gỡ bỏ được 4466 video clip xấu độc trên trang Youtube trong tổng số khoảng 5000 video clip theo yêu cầu của Bộ Thông tin và Truyền thông (chiếm tỷ lệ 90%, thuộc nhóm các nước được Google đáp ứng yêu cầu cao nhất trên toàn thế giới); Facebook đâ gỡ bỏ 107/107 tài khoản giả mạo, 394 link rao bán, quảng cáo các sản phẩm, dịch vụ bất hợp pháp, 159 tài khoản nói xấu, bôi nhọ lãnh đạo, tuyên truyền chống phá Đảng, Nhà nước.
Để tạo nên một số kết quả bước đầu trong việc đàm phán với Google, Facebook như đã nêu trên, một phần không nhỏ là do sự hỗ trợ của truyền thông. Song song với việc quyết liệt triển khai các giải pháp khi phát hiện vi phạm về quảng cáo trên Youtube, thì việc cung cấp, định hướng thông tin kịp thời cho các cơ quan báo chí đã tạo được hiệu ứng truyền thông trong và ngoài nước, tạo nên sức ép khiến công ty mang tính toàn cầu như Google, Facebook phải nhượng bộ, thỏa hiệp, thể hiện rõ thiện chí hợp tác với Bộ Thông tin và Truyền thông.
Bên cạnh đó, trong quá trình triển khai thực hiện, Bộ Thông tin và Truyền thông thường xuyên báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ và Ban Bí thư. Bộ đã nhận được quan tâm sát sao, chỉ đạo kịp thời của Thủ tướng Chính phủ, Ban Bí thư để đạt được kết quả khả quan ban đầu như đã nêu trên.
Ngoài ra, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng đã phối hợp chặt chẽ với Bộ Công an để xác định hành vi, đối tượng và ngăn chặn, xử lý các trường hợp vi phạm ẩn danh tính hoặc đối tượng chống phá Đảng, Nhà nước.
3.1. Giải pháp về cơ chế chính sách:
3.2. Các giải pháp kỹ thuật:
Hiện nay tại Việt Nam, một số mạng xã hội của nước ngoài như Facebook, Youtube vẫn đang chiếm phần lớn thị trường, chính vì vậy trong ngắn hạn, các giải pháp quản lý và tuyên truyền vẫn cần tiến hành đối với mạng xã hội này. Tuy nhiên về dài hạn, Việt Nam cần có những mạng xã hội tương đương, có khả năng thay thế hoặc cạnh tranh được với Facebook tại Việt Nam và do doanh nghiệp tại Việt Nam cung cấp dịch vụ. Do đó, cần có các giải pháp, cơ chế chính sách nhằm hỗ trợ, thúc đẩy mạng xã hội trong nước phát triển.
Trong thời gian tới, Bộ sẽ tăng cường hợp tác quốc tế, thiết lập các đầu mối và cơ chế phối hợp giữa Bộ với các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp dịch vụ xuyên biên giới vào Việt Nam trong việc ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin xấu độc, vi phạm quy định của pháp luật Việt Nam. Hiện nay, Bộ đã thiết lập được đầu mối với Google và Facebook. Đây là hai dịch vụ của nước ngoài có khá đông người Việt Nam sử dụng. Tới đây, Bộ sẽ thiết lập đầu mối, cơ chế hợp tác với một số doanh nghiệp khác như Apple (quản lý AppStore), Twitter, Microsoft...
Đẩy mạnh các hoạt động hợp tác quốc tế trong khu vực và trên thế giới để tăng cường trao đổi, họp tác quốc tế trong việc quản lý nội dung thông tin trên mạng nói chung và đối với việc xử lý thông tin vi phạm trên mạng nói riêng.
Tham khảo thông lệ quốc tế trong việc phối hợp, xử lý thông tin vi phạm của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ qua biên giới.
3.6 Tham gia phối hợp của các bộ, ngành:
Hiện nay, lĩnh vực quản lý của hầu hết các bộ, ngành đều được cung cấp trên mạng thông qua ứng dụng chuyên ngành, như mua bán trực tuyến, thanh toán trực tuyến, khám chữa bệnh trực tuyến, giáo dục - đào tạo trực tuyến, xem phim trực tuyến .. Do đó, việc quản lý hoạt động cung cấp, sử dụng thông tin, dịch vụ trên mạng liên quan đến nhiều bộ, ngành. Vì vậy, để việc quản lý nội dung, dịch vụ trên mạng một cách hiệu quả cần sự phối họp chặt chẽ giữa các bộ, ngành có liên quan. Theo đó, phân cấp trách nhiệm của các bộ, ngành có liên quan như sau:
Toàn bộ nội dung văn bản trả lời chất vấn xin xem tại file đính kèm./.
Cổng Thông tin điện tử Quốc hội