Thông báo số 1135/TB-TTKQH về kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 14 (tháng 9/2017)

11/10/2017

QUỐC HỘI KHÓA XIV

TỔNG THƯ KÝ QUỐC HỘI

Số: 1135/TB-TTKQH

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

  Hà Nội, ngày 26 tháng 9  năm 2017

  

THÔNG BÁO

Kết luận của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội

tại phiên họp thứ 14 (tháng 9/2017)

 

Từ ngày 11 đến ngày 21/9/2017, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã họp phiên thứ 14 tại Hà Nội dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân để cho ý kiến về các nội dung dự kiến trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 4 và công tác chuẩn bị kỳ họp, đồng thời xem xét một số vấn đề quan trọng khác. 

Thực hiện ý kiến chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội trân trọng thông báo kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp như sau:

1. Dự án Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với tên gọi của dự án Luật là Luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; được áp dụng đối với 03 đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (HCKTĐB) Vân Đồn (Quảng Ninh), Bắc Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang) và không quy định áp dụng Luật cho các đơn vị HCKTĐB khác. Quy định của Luật có thể khác với quy định của các luật hiện hành nhưng không được trái Hiến pháp.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành việc quy định trong dự thảo Luật những cơ chế, chính sách mang tính đột phá, vượt trội để bảo đảm đủ sức cạnh tranh khu vực và quốc tế, đồng thời đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát, cân nhắc kỹ từng nhóm chính sách, nhất là các chính sách về ưu đãi đầu tư, thuế, đất đai; quy định rõ và đầy đủ hơn các chính sách riêng đặc thù gắn với các ngành, nghề ưu tiên phát triển của từng đơn vị HCKTĐB để phát huy lợi thế so sánh, tránh cạnh tranh lẫn nhau. Cần quy định ngay tại Luật này danh mục ngành, nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện áp dụng đối với nhà đầu tư; thực hiện đầy đủ theo quy định của Bộ luật Dân sự về lựa chọn pháp luật nước ngoài áp dụng đối với hợp đồng đầu tư, thương mại, dân sự có yếu tố nước ngoài; cho phép lựa chọn Tòa án nước ngoài để giải quyết tranh chấp giữa các nhà đầu tư, trong đó có ít nhất một bên là nhà đầu tư nước ngoài, liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh tại đơn vị HCKTĐB, trừ tranh chấp liên quan đến quyền đối với tài sản là bất động sản có trên lãnh thổ Việt Nam và bảo đảm việc công nhận và cho thi hành bản án, quyết định của Tòa án nước ngoài tại Việt Nam không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Về mô hình tổ chức chính quyền ở đơn vị HCKTĐB: đề nghị trình 2 phương án để Quốc hội thảo luận. Cụ thể là: phương án 1 như Chính phủ đề xuất trong dự thảo Luật; phương án 2 như được nêu trong Báo cáo thẩm tra số 798/BC-UBPL14 của Ủy ban Pháp luật.

Nghiên cứu mô hình tổ chức cơ quan tư pháp đơn vị HCKTĐB tương đương cơ quan tư pháp cấp huyện, được bổ sung một số thẩm quyền phù hợp; đồng thời, tăng cường về bộ máy, nhân lực, điều kiện cơ sở vật chất, kinh phí hoạt động cho các cơ quan này; rà soát kỹ các quy định tố tụng có liên quan để đề xuất sửa đổi nếu cần thiết. Ủy ban Tư pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nghiên cứu và có ý kiến về vấn đề này để làm cơ sở cho Quốc hội xem xét, thảo luận.

Đề nghị Chính phủ tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoàn chỉnh dự án Luật; bổ sung đề án thành lập 3 đơn vị HCKTĐB (trong đó có các nội dung về bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội, giải quyết tốt chính sách xã hội, bảo đảm đời sống nhân dân tại chỗ), các dự thảo nghị quyết về thành lập 3 đơn vị HCKTĐB và các tài liệu khác có liên quan để trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 4 đồng bộ với dự án Luật; Ủy ban Pháp luật tiến hành thẩm tra chính thức, báo cáo Quốc hội. Trên cơ sở ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội và các vấn đề thuộc nội dung dự án Luật cần tiếp tục được nghiên cứu, giải quyết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ báo cáo Quốc hội quyết định việc xem xét, thông qua dự án Luật tại kỳ họp thứ 5 hay cần tiếp tục hoàn chỉnh để trình Quốc hội thông qua tại kỳ họp thứ 6.

2. Dự án Luật Đo đạc và bản đồ

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí về sự cần thiết ban hành, phạm vi điều chỉnh và tên gọi của Luật Đo đạc và bản đồ (ĐĐ&BĐ) như Chính phủ trình, đồng thời đề nghị:

- Ban soạn thảo đánh giá về sự tác động của Luật ĐĐ&BĐ với các luật khác có liên quan, hoàn thiện hồ sơ trình Quốc hội tại kỳ họp 4 theo quy định.

- Cân nhắc những quy định về phân cấp quản lý cho địa phương để phù hợp với điều kiện của các địa phương. Tiếp tục rà soát thêm về các điều kiện liên quan đến hoạt động ĐĐ&BĐ.

- Có quy định về nguyên tắc thống nhất thể hiện địa danh trên các sản phẩm bản đồ để thể hiện chủ quyền, lãnh thổ Việt Nam; địa danh của khu vực khác thì theo quy định của Liên hợp quốc.

- Cụ thể hóa những nội dung trong Luật, những quy định về sử dụng chung dữ liệu để đảm bảo tiết kiệm, hiệu quả.

- Bổ sung nội dung liên quan đến các vấn đề: áp dụng, ứng dụng khoa học kỹ thuật; bảo mật; quốc phòng, an ninh. Tập trung làm rõ hơn nữa về vấn đề xã hội hóa và cân nhắc yếu tố nước ngoài tham gia vào hoạt động ĐĐ&BĐ.

 - Rà soát điều khoản chuyển tiếp để tránh sửa đổi, loại bỏ quy định của các Luật hiện hành.

3. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thể dục, thể thao

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí với nội dung Tờ trình của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội; nhất trí với sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung Luật Thể dục, thể thao. Hồ sơ dự án Luật đủ điều kiện để trình Quốc hội.

Qua thảo luận, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng dự án Luật cần phải nghiên cứu sâu hơn để có thể giải quyết hợp lý các vấn đề thực tiễn đặt ra; làm rõ thêm những nội dung liên quan đến các khái niệm; cân nhắc, rà soát lại chính sách ưu đãi về thuế, đất đai trong hoạt động thể dục thể thao nhằm thể chế quan điểm của Đảng về thể dục thể thao và bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.

Đối với một số nội dung cụ thể, đề nghị như sau:

- Về thể thao quần chúng: Cần quan tâm toàn diện công tác thể dục, thể thao, trong đó, chú ý phát triển mạnh mẽ phong trào toàn dân rèn luyện thể dục, thể thao; các môn thể thao truyền thống.

- Về thể thao thành tích cao: Cần tăng cường xã hội hóa, đầu tư có chọn lọc, coi trọng đầu tư cho đào tạo; có chính sách ưu đãi thỏa đáng đối với vận động viên thể thao đạt thành tích cao trong các giải thi đấu quốc gia và quốc tế; thực hiện bình đẳng giới trong hoạt động thể dục, thể thao.

- Về thể thao trong nhà trường: Đề nghị cân nhắc quy định nhà trường có trách nhiệm tổ chức mỗi năm ít nhất một cuộc thi đấu thể thao toàn trường; bổ sung những quy định nhằm đảm bảo mục tiêu nâng cao sức khỏe, phát triển thể lực, tầm vóc cho học sinh, sinh viên và phát hiện năng khiếu, đào tạo tài năng thể thao cho đất nước.

- Về đặt cược trong thể thao: Đây là vấn đề mới, còn ý kiến khác nhau, cần phân tích kỹ, có đánh giá tác động toàn diện và quy định mang tính nguyên tắc trong dự thảo Luật về đặt cược để đưa ra thảo luận xin ý kiến Quốc hội.

Đề nghị Chính phủ chỉ đạo cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp chặt chẽ với cơ quan hữu quan tiếp tục nghiên cứu Báo cáo thẩm tra sơ bộ của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng; ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để tiếp thu, hoàn chỉnh dự án luật, chuẩn bị đầy đủ hồ sơ bảo đảm đúng thời hạn trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 4. Đối với những vấn đề mới cần có đánh giá tác động toàn diện, sâu sắc hơn bảo đảm chất lượng, sự đồng thuận và tính khả thi của Luật khi được ban hành.

4. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế bảo vệ môi trường

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng dự án Luật còn nhiều ý kiến khác nhau, đặc biệt là sự khác nhau giữa Cơ quan soạn thảo và Cơ quan thẩm tra về phạm vi sửa đổi luật, biểu khung thuế đối với xăng dầu, thời điểm tính thuế đối với xăng dầu và thời hiệu thi hành của Luật, do đó đề nghị Chính phủ:

- Tiếp tục nghiên cứu, tiếp thu đầy đủ ý kiến xác đáng của Thường trực Ủy ban Tài chính, Ngân sách, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tập đoàn xăng dầu Việt Nam và ý kiến của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội. Đặc biệt cần nghiên cứu để mở rộng đối tượng chịu thuế có tác động xấu đến môi trường theo định hướng của chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011-2020. Theo đó, đề nghị Chính phủ trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 5 (tháng 5/2018).

- Trường hợp cần thiết phải điều chỉnh tăng mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu do giá xăng, dầu thấp dẫn đến việc tiêu dùng quá mức, tác động không tốt đến môi trường và ảnh hưởng lớn đến thu ngân sách nhà nước, Chính phủ trình Uỷ ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định điều chỉnh lên mức trần trong khung thuế suất đã được Quốc hội quyết định.

5. Dự án Luật Quy hoạch

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với việc bổ sung cụm từ “hệ thống quy hoạch quốc gia” vào phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật. Đồng thời, đề nghị rà soát, chỉnh sửa các điều 23, 24, 26, 27 và 28 để bảo đảm nguyên tắc Luật Quy hoạch đáp ứng mục tiêu của Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/1/2012 của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI là “Xây dựng Luật Quy hoạch có phạm vi điều chỉnh chung cho các loại quy hoạch phát triển trên phạm vi cả nước”.

Dự thảo Luật cần quy định theo hướng giao Chính phủ thống nhất quản lý về quy hoạch; Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ quan giúp Chính phủ thống nhất quản lý, là đầu mối chịu trách nhiệm chính; các bộ, ngành khác thực hiện theo sự phân công của Chính phủ.

Về các cơ quan lập quy hoạch, thống nhất không thành lập cơ quan mới. Việc thành lập các hội đồng thẩm định chỉ mang tính chất lâm thời, nhằm giúp thẩm định và tư vấn cho công tác quy hoạch chứ không làm cơ quan quản lý nhà nước về quy hoạch.

Đề nghị Chính phủ khẩn trương rà soát đầy đủ các luật có liên quan đến hoạt động quy hoạch, thống nhất trình Quốc hội một luật sửa nhiều luật bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí trình Quốc hội xem xét, thông qua một Nghị quyết của Quốc hội về việc thi hành Luật Quy hoạch để xử lý các vấn đề trong giai đoạn chuyển tiếp từ khi Quốc hội thông qua Luật đến khi Luật có hiệu lực thi hành. Nhất trí về dự kiến thời gian hiệu lực thi hành của Luật từ ngày 01/01/2019 tạo cơ sở để các bộ, ngành, địa phương chuẩn bị chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2021-2030 và kế hoạch, quy hoạch 5 năm giai đoạn 2021-2025.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ hoàn chỉnh Tờ trình bổ sung về các nội dung và phối hợp với Ủy ban Kinh tế sớm hoàn chỉnh dự thảo Luật; Ủy ban Kinh tế phối hợp với Ủy ban Pháp luật rà soát những nội dung cần báo cáo Bộ Chính trị, dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự án Luật gửi xin ý kiến các Đại biểu Quốc hội trước khi trình Quốc hội. Các Ủy ban của Quốc hội có nội dung liên quan đến dự án Luật Quy hoạch thuộc lĩnh vực mình phụ trách cần có văn bản gửi Ủy ban Kinh tế để cho ý kiến về nội dung dự kiến sẽ được sửa đổi, bổ sung trong các luật liên quan đến công tác quy hoạch.

6. Dự án Luật Cạnh tranh (sửa đổi)

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí những vấn đề sau:

- Sự cần thiết phải sửa đổi Luật Cạnh tranh năm 2004 để khắc phục những tồn tại, hạn chế và đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

- Hướng mở rộng phạm vi điều chỉnh của dự án Luật đối với những hành vi thực hiện bên ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng có tác động hạn chế cạnh tranh trên thị trường Việt Nam và mở rộng đối tượng áp dụng đối với các chủ thể là cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, kể cả các cơ quan nhà nước thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật về cạnh tranh.

- Cách tiếp cận về kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh như dự thảo luật. Cần phải khắc phục tình trạng độc quyền nhà nước vì lợi ích quốc gia, dân tộc và đa số người dân nhưng đã bị biến thái sang độc quyền của doanh nghiệp vì lợi ích của doanh nghiệp và lợi ích của một nhóm người. Chống độc quyền song không được làm hạn chế sự phát triển, làm ảnh hưởng đến vai trò điều tiết của cơ chế thị trường. Cần lưu ý đến những vấn đề bất bình đẳng hiện nay trong cạnh tranh giữa các tổ chức của Việt Nam và nước ngoài, phải đảm bảo cạnh tranh lành mạnh, không để những tổ chức nước ngoài sử dụng sức mạnh của họ để gây sức ép với doanh nghiệp trong nước trái pháp luật, bảo vệ được quyền lợi của người tiêu dùng.

- Việc hợp nhất cơ quan Cục Quản lý cạnh tranh và Hội đồng Cạnh tranh. Cơ quan này trực thuộc Bộ Công Thương nhưng phải bảo đảm tính độc lập tương đối, hoạt động tuân theo pháp luật.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị:

- Rà soát lại, việc sửa luật này có ảnh hưởng thế nào đến các luật khác trên nguyên tắc là những luật chung, thì phải ổn định, còn các luật chuyên ngành, nếu phải sửa về mặt kỹ thuật thì sửa.

- Rà soát lại Điều 4 của dự thảo Luật, đặc biệt là khoản 3 của Điều này.

- Các vấn đề khác liên quan đến một số trình tự xử lý, thủ tục, tài phán có thể có quan hệ với một số luật như tố tụng dân sự, vấn đề xử lý vi phạm hành chính…, đề nghị rà soát đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

- Rà soát về kỹ thuật lập pháp.

- Đối với quy định về hiệp hội, cần nghiên cứu, làm rõ thêm về tác động của hội ảnh hưởng đến hoạt động cạnh tranh.

7. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí đối với những nội dung do Ủy ban Kinh tế chuẩn bị trong dự thảo báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý; đồng thời tán thành phạm vi sửa đổi, bổ sung một số điều của dự thảo Luật đã được trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 3, chưa thực hiện sửa toàn diện Luật các tổ chức tín dụng lần này.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị:

- Chính phủ nghiên cứu bổ sung thêm điều khoản quy định trường hợp có khả năng mất an toàn hệ thống, có các giải pháp, biện pháp đặc biệt để xử lý kịp thời, bảo đảm an toàn hệ thống nhưng phải tuân thủ các quy định của Hiến pháp và pháp luật, báo cáo với Quốc hội tại kỳ họp gần nhất và giao Chính phủ quy định chi tiết.

- Cần có chính sách khuyến khích các tổ chức tham gia quá trình cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng, nhưng không quy định các nội dung về chính sách thuế trong Luật này, mà sẽ trình Quốc hội xem xét sửa đổi, bổ sung các luật về thuế.

- Bỏ Điều 147 về miễn trách nhiệm đối với người tham gia cơ cấu lại tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt, vấn đề này sẽ được xem xét và rà soát lại khi sửa các luật có liên quan.

- Chính phủ giải trình, làm rõ các phương án cơ cấu lại tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt, nhất là phương án chuyển giao bắt buộc, bảo đảm phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành; làm rõ khi nào phải chuyển giao, điều kiện đặt ra để chuyển giao bắt buộc, giá chuyển giao bắt buộc, đối tượng nhận chuyển giao bắt buộc có bao gồm cả Nhà nước, các tổ chức tín dụng và nhà đầu tư khác và xử lý chuyển tiếp. Nội dung này sẽ xin ý kiến Bộ Chính trị và trình Quốc hội thảo luận.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao Ủy ban Kinh tế chủ trì phối hợp với Ủy ban Pháp luật, Tổng Thư ký Quốc hội và Cơ quan soạn thảo hoàn thiện dự thảo Luật và Báo cáo tiếp thu, giải trình gửi xin ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội trước khi trình Quốc hội theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

8. Dự án Luật An ninh mạng:

Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành việc mở rộng phạm vi điều chỉnh của Dự thảo Luật như ý kiến của Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh, đồng thời đề nghị một số vấn đề sau:

- Chính phủ rà soát, bổ sung Tờ trình, báo cáo rõ việc thực hiện các văn bản chỉ đạo của Đảng, quy định của pháp luật, những khó khăn, vướng mắc trong công tác bảo đảm an ninh mạng thời gian qua; làm rõ cơ sở chính trị, pháp lý cần ban hành Luật này (trong khi đã có Luật An toàn thông tin mạng); cần xác định quan điểm trung tâm của Luật này là bảo vệ an ninh quốc gia trên không gian mạng; đồng thời, bổ sung đánh giá tác động các chính sách quy định trong dự thảo Luật.

- Làm rõ khái niệm “về an ninh mạng” để thống nhất với các quy định trong dự thảo Luật.

- Trong nội dung dự án Luật liên quan đến môi trường mạng, có nhiều vấn đề mới chưa được kiểm chứng thực tế nên cần được nghiên cứu kỹ, lựa chọn kinh nghiệm của các nước cho phù hợp. Dự thảo có liên quan đến nhiều luật, pháp lệnh, nhất là Luật An toàn thông tin mạng, Luật An ninh quốc gia… Do vậy, phải rà soát kỹ để quy định bảo đảm chặt chẽ, thống nhất và khả thi; lưu ý phân biệt rõ nội hàm giữa an ninh mạng với an toàn thông tin mạng, nếu không được làm rõ vấn đề này sẽ là sự bất cập lớn của Dự án luật.

- Các quy định liên quan đến quyền con người, quyền công dân cần quy định cụ thể ngay trong Luật (Điều 6, Điều 23, Điều 29…) để phù hợp Hiến pháp năm 2013; hạn chế phát sinh các thủ tục hành chính để không ảnh hưởng đến hoạt động thông tin, sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp; những vấn đề liên quan đến bí mật nhà nước thì báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Các quy định về hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia trong dự thảo Luật cần cụ thể hơn, xác định rõ tiêu chí để thuận lợi khi áp dụng điều luật, nhất là nội dung quy định tại Điều 9 dự thảo Luật.

- Các biện pháp bảo vệ an ninh mạng cần quy định thống nhất với các biện pháp bảo vệ an ninh quốc gia, với các quy định về bảo đảm an toàn thông tin mạng; rà soát kỹ các quy định về thẩm quyền, trách nghiệm của các bộ ngành; nhất là với Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban cơ yếu Chính phủ để thống nhất, phù hợp với pháp luật có liên quan.

9. Dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi):

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) có nhiều nội dung lớn, quan trọng cần sớm được ban hành để phục vụ cho yêu cầu đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu hoàn chỉnh một số nội dung cơ bản của dự thảo, cụ thể là:

- Việc từng bước mở rộng phòng, chống tham nhũng sang khu vực tư là phù hợp với tinh thần chỉ đạo của Đảng, Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng và thực tiễn đang đặt ra. Tuy nhiên, việc mở rộng đối tượng điều chỉnh của dự án Luật đến đâu thì cần cân nhắc thận trọng bảo đảm tính khả thi để không làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các tổ chức xã hội, quyền tự do kinh doanh của các doanh nghiệp ngoài nhà nước.

- Cần rà soát các quy định của dự thảo Luật để bảo đảm thống nhất với hệ thống pháp luật. Trường hợp các quy định của pháp luật hiện hành chưa phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng, chống tham nhũng thì cần được nghiên cứu để báo cáo Quốc hội sửa đổi, bổ sung hoặc đề xuất sửa đổi ngay trong dự thảo Luật này.

- Không quy định trách nhiệm của Ủy ban Kiểm tra các cấp trong dự thảo Luật.

- Việc giao cho người ra quyết định kiểm tra, thanh tra, kiểm toán có quyền không chuyển ngay vụ việc có dấu hiệu tội phạm tham nhũng sang cơ quan điều tra mà được giữ lại làm rõ, ra kết luận (Điều 74) cần phải được cân nhắc để bảo đảm phù hợp với thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm về tham nhũng, đồng thời thống nhất với quy định của pháp luật hiện hành.

- Rà soát cân nhắc về tính hiệu quả, tính khả thi của các quy định về minh bạch và kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong dự thảo Luật, đặc biệt là các quy định về phạm vi mở rộng đối tượng kê khai tài sản, thu nhập, quy định về cơ quan có thẩm quyền kiểm soát tài sản, thu nhập, vấn đề bảo mật thông tin của người kê khai khi công khai bản kê khai tài sản, thu nhập…

- Tiếp tục kế thừa Luật Phòng, chống tham nhũng hiện hành quy định về Chính phủ là cơ quan đầu mối báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng trước Quốc hội, các quy định về cơ quan chuyên trách chống tham nhũng.

Đề nghị cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp với cơ quan chủ trì thẩm tra và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, hoàn thiện dự án Luật; bổ sung trong hồ sơ dự án Luật dự thảo văn bản hướng dẫn thi hành, báo cáo đánh giá tác động một số nội dung quan trọng của dự án Luật, nhằm bảo đảm chất lượng của dự án trước khi trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ 4. Trong quá trình thảo luận, Quốc hội sẽ xem xét, quyết định việc thông qua dự án Luật này tại 02 hoặc 03 kỳ họp.

10. Dự án Luật Quản lý nợ công (sửa đổi).

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng việc sửa đổi Luật Quản lý nợ công phải trên cơ sở kế thừa Luật hiện hành và quán triệt nghiêm túc tinh thần Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản lý nợ công để bảo đảm nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững. Đồng thời, đề nghị một số vấn đề sau:

- Về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong quản lý nợ công, Luật cần quy định: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về nợ công; Bộ Tài chính là cơ quan đầu mối giúp Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về nợ công và chịu trách nhiệm chính về nhiệm vụ này (Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Bộ Tài chính).

- Dự thảo Luật cần được rà soát, điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các bộ, ngành có liên quan để thể hiện rõ chức năng của Bộ Tài chính trong quản lý nợ công, bảo đảm thực hiện đúng tinh thần Nghị quyết số 07-NQ/TW, gắn trách nhiệm quyết định chi ngân sách, vay nợ công với trách nhiệm quản lý ngân sách nhà nước và trả nợ công.

- Trình Quốc hội Dự thảo Nghị định kèm theo Dự án Luật quản lý nợ công (sửa đổi).

11. Báo cáo của Chính phủ về tình hình thi hành Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao sự chuẩn bị và tán thành với nhiều nội dung trong các báo cáo của Chính phủ và báo cáo thẩm tra sơ bộ của Thường trực Ủy ban Pháp luật. Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ý kiến thẩm tra của Thường trực Ủy ban Pháp luật, đề nghị Chính phủ tiếp tục bổ sung, hoàn thiện các báo cáo, làm rõ hơn kết quả, tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, trách nhiệm của từng cơ quan đối với những hạn chế, bất cập được nêu trong báo cáo; kiến nghị các giải pháp cụ thể bảo đảm tính khả thi; Ủy ban Pháp luật tổ chức thẩm tra chính thức để gửi đại biểu Quốc hội theo đúng thời gian quy định.

12. Báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí với Báo cáo của Chính phủ và ghi nhận sự nỗ lực của Chính phủ, trong đó có cơ quan quản lý nhà nước về bình đẳng giới (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) và các bộ, ngành, tổ chức hữu quan đã có sự phối hợp triển khai thực hiện Luật Bình đẳng giới để đưa Luật vào cuộc sống.

Nhiều văn bản hướng dẫn thi hành luật đã được ban hành để tạo cơ sở pháp lý cho việc thực thi luật, số lượng văn bản quy phạm pháp luật được lồng ghép giới ngày càng gia tăng và có chất lượng hơn. Cơ quan soạn thảo là các bộ, ngành đã quan tâm hơn đến việc lồng ghép giới trong xây dựng văn bản quy phạm pháp luật. Bộ máy, cán bộ làm công tác bình đẳng giới từng bước đã được kiện toàn.

Mặc dù đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, song vẫn còn một số hạn chế cần có giải pháp khắc phục như: sự quan tâm của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp còn chưa đầy đủ; nhiều chỉ tiêu chưa đạt được mục tiêu đề ra; kinh phí dành cho công tác bình đẳng giới còn hạn hẹp và phân bổ chưa kịp thời, thiếu số liệu thống kê giới quốc gia, một số thực trạng gây bức xúc trong dư luận xã hội như cho lao động nữ trên 35 tuổi thôi việc tại một số doanh nghiệp, tình trạng lạm dụng trẻ em gái...

Trên cơ sở đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị:

- Thống nhất với kiến nghị của Ủy ban về các vấn đề Xã hội về việc trình Quốc hội thảo luận về Báo cáo này tại kỳ họp thứ 4 của Quốc hội.

- Chính phủ rà soát lại các nội dung, số liệu, kết cấu để chỉnh lý Báo cáo trên cơ sở ý kiến thảo luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, bổ sung phụ lục, số liệu, trích dẫn rõ ràng, chính xác và thống nhất. Đồng thời, phân tích kỹ các chỉ tiêu, nhất là các chỉ tiêu chưa đạt được, còn bất hợp lý, nêu rõ nguyên nhân để trình Quốc hội thảo luận, cho ý kiến.

- Ủy ban về các vấn đề Xã hội tiếp tục hoàn thiện Báo cáo thẩm tra theo hướng làm rõ nguyên nhân về nhận thức, công tác lãnh đạo, nội dung tổ chức thực hiện, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, kể cả cán bộ làm công tác bình đẳng giới. Đồng thời, quan tâm đánh giá thêm các mục tiêu, chỉ tiêu và sắp xếp lại cho hợp lý trước khi trình ra Quốc hội. Cần thiết, tổ chức làm việc với Thường trực Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội để trao đổi thêm ý kiến, bổ sung số liệu, thảo luận về những vấn đề cần đặt ra và giải pháp trong thời gian tới trước khi thẩm tra chính thức Báo cáo của Chính phủ.

- Chính phủ, các bộ, ngành cần quan tâm hơn nữa trong việc tổ chức thực hiện Luật Bình đẳng giới, trong đó đặc biệt là các vấn đề: Trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ; vấn đề nữ công nhân lao động, đặc biệt lao động nữ ở nông thôn, lao động nữ làm các công việc giản đơn thu nhập thấp, lao động nữ trong các khu công nghiệp; vấn đề phụ nữ dân tộc ít người, tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống ...

13. Các báo cáo của Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2017

- Về báo cáo của Chính phủ:

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí với đánh giá của Chính phủ về tình hình khiếu nại, tố cáo trong năm 2017 vẫn diễn biến phức tạp; tán thành với nguyên nhân và giải pháp đã được nêu trong Báo cáo của Chính phủ; tán thành với các nội dung nêu trong Báo cáo thẩm tra sơ bộ của Thường trực Ủy ban Pháp luật.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát các nội dung trong Báo cáo, bảo đảm cập nhật số liệu chuẩn xác; bổ sung phân tích, đánh giá cụ thể hơn về tình hình và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thời gian qua, làm rõ những điểm tích cực, những nội dung mới phát sinh trong năm 2017, trong đó nêu rõ những nội dung còn tồn tại, hạn chế, tránh đánh giá chung chung mà không chỉ rõ được cơ quan, tổ chức, cá nhân phải chịu trách nhiệm cụ thể; phân tích sâu sắc hơn về nguyên nhân chủ quan của tình hình khiếu nại, tố cáo; làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm của người có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo để xảy ra các vụ việc phức tạp, tồn đọng, kéo dài; đưa ra những giải pháp mới có tính khả thi, sát thực, phù hợp với tình hình, điều kiện hiện nay; khắc phục tình trạng đơn thư chuyển vòng vo giữa các cơ quan.

Trên cơ sở các ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đề nghị Chính phủ tiếp tục hoàn thiện báo cáo; Ủy ban Pháp luật tiến hành thẩm tra chính thức để gửi đại biểu Quốc hội theo đúng thời gian quy định.

- Về các báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC):

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí với các báo cáo của VKSNDTC, TANDTC về công tác giải quyết khiếu nại tố cáo trong năm 2017. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, TANDTC đã có một số giải pháp trước mắt nhằm đẩy nhanh tiến độ giải quyết đơn như: bố trí nhân sự, điều chuyển cán bộ để tập trung giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm ở các Tòa án nhân dân cấp cao hiện nay. Trên cơ sở đó, tỷ lệ giải quyết đơn tăng so với cùng kỳ năm trước.

Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, VKSNDTC và TANDTC cần có các giải pháp cơ bản lâu dài để giải quyết tình trạng đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm còn tồn đọng nhiều, phấn đấu đạt tỷ lệ giải quyết đơn theo Nghị quyết của Quốc hội. Đồng thời, đề nghị VKSNDTC, TANDTC hoàn chỉnh lại hồ sơ báo cáo, rà soát chính xác về số liệu để trình ra Quốc hội tại kỳ họp thứ tư.

14. Các báo cáo công tác của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC), Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC); các báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác thi hành án và công tác phòng, chống tham nhũng năm 2017

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, các Báo cáo của Chính phủ, VKSNDTC, TANDTC và các Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp về cơ bản đã phản ánh tương đối đầy đủ các mặt công tác, những kết quả đạt được, hạn chế, khó khăn, vướng mắc, nguyên nhân và đề ra các giải pháp khắc phục trong thời gian tới về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác thi hành án, công tác phòng, chống tham nhũng, về công tác của ngành Kiểm sát và công tác của ngành Tòa án năm 2017. Các báo cáo đủ điều kiện trình tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ, VKSNDTC, TANDTC tiếp tục cập nhật, bổ sung số liệu đầy đủ 12 tháng (từ 01/10/2016 đến 30/9/2017) và hoàn thiện các báo cáo, UBTP hoàn thiện các báo cáo thẩm tra, để trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIV. Các báo cáo trình Quốc hội của Chính phủ, VKSNDTC, TANDTC và báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp bao gồm Báo cáo đầy đủ và Báo cáo tóm tắt.

Về nội dung các báo cáo, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị:

- Chính phủ, VKSNDTC, TANDTC chọn ra những giải pháp bám sát vào tình hình, diễn biến của yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật, kinh tế - xã hội và đề ra những giải pháp, nhiệm vụ gắn với từng chủ thể để tổ chức thực hiện nhằm nâng cao chất lượng của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong thời gian tới. 

- Chính phủ, VKSNDTC, TANDTC bám sát các Nghị quyết của Quốc hội về công tác tư pháp để đánh giá chất lượng công tác năm 2017, những việc các cơ quan đã làm được, chưa làm được và những nguyên nhân của những tồn tại, khó khăn, vướng mắc để tập trung giải quyết.

- Chính phủ tiếp tục hoàn thiện Báo cáo về công tác phòng chống tham nhũng, chỉ ra những nguyên nhân vướng mắc trong công tác phòng chống tham nhũng nêu cụ thể những quy định nào của pháp luật còn chưa đồng bộ, thống nhất, làm ảnh hưởng đến công tác phòng chống tham nhũng; chỉ rõ những tồn tại, hạn chế thuộc trách nhiệm của bộ, ngành, địa phương nào; đánh giá cụ thể việc thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu của các Nghị quyết của Quốc hội về công tác tư pháp.

- Các cơ quan tư pháp lưu ý tách nhóm tội phạm về kinh tế, chức vụ khỏi nhóm tội phạm tham nhũng để đánh giá về công tác phòng, chống tham nhũng cho sát với tình hình thực tế.

- Chính phủ, VKSNDTC, TANDTC thực hiện đúng quy định của Nghị quyết số 39-NQ/TW ngày 17 tháng 04 năm 2015 của  Bộ Chính trị về tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đồng thời nghiên cứu giải pháp sắp xếp, điều động đội ngũ cán bộ, công chức hợp lý giữa nơi ít việc và nhiều việc. Bên cạnh đó cần có giải pháp nâng cao trình độ năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho các chức danh tư pháp để đảm bảo thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

15. Kế hoạch kiểm toán năm 2018 của Kiểm toán Nhà nước

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao những cố gắng của Kiểm toán Nhà nước trong năm 2017 và cơ bản thống nhất với kế hoạch kiểm toán do Kiểm toán Nhà nước trình, cũng như ý kiến của Ủy ban Tài chính, Ngân sách. Đồng thời đề nghị Kiểm toán Nhà nước:

- Khắc phục những hạn chế, tồn tại trong hoạt động kiểm toán năm 2016, 2017 để xây dựng kế hoạch kiểm toán năm 2018 cho phù hợp. Lựa chọn đối tượng kiểm toán phù hợp với yêu cầu của Luật Kiểm toán Nhà nước, yêu cầu của tình hình hiện nay, nhất là những lĩnh vực, vấn đề bức xúc đang nổi lên. Tập trung để kiểm toán quyết toán ngân sách nhà nước năm 2016, việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản Nhà nước cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, vốn ODA, các dự án đầu tư theo hình thức BT, các chương trình mục tiêu quốc gia.

- Tăng cường đánh giá việc ban hành, triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật trong đó có Luật Ngân sách nhà nước 2015. Lưu ý đến công tác kiểm toán và kiểm soát nội bộ, công khai thông tin kiểm toán. Tích cực phối hợp với các cơ quan thanh tra, kiểm tra để khắc phục tình trạng chồng chéo trong hoạt động.  

- Tiếp thu ý kiến của Ủy ban Tài chính - Ngân sách và ý kiến tham gia tại phiên họp này hoàn chỉnh lại kế hoạch kiểm toán để gửi xin ý kiến các vị đại biểu Quốc hội. Sau khi quyết định kế hoạch kiểm toán cần có báo cáo tiếp thu giải trình ý kiến tham gia về kế hoạch kiểm toán gửi Ủy ban Thường vụ      Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội.

16. Việc chuẩn bị kỳ họp thứ 4 của Quốc hội

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản thống nhất với Báo cáo của Tổng Thư ký Quốc hội. Đồng thời, đề nghị Tổng Thư ký Quốc hội phối hợp với các cơ quan hữu quan nghiên cứu tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, chỉnh lý dự kiến chương trình kỳ họp cho phù hợp, trong đó chú ý một số vấn đề sau:

- Bố trí sớm hơn các dự án luật trình thông qua để các cơ quan có thời gian tiếp thu, chỉnh lý; các dự án trình xin ý kiến có thể lùi lại sau.

- Rút 03 dự án luật ra khỏi chương trình: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Lý lịch tư pháp, Luật Hành chính công và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế bảo vệ môi trường.

- Dành 0,5 ngày để thảo luận Báo cáo việc thực hiện mục tiêu quốc gia về bình đẳng giới và 0,5 ngày cho các báo cáo về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gắn với thảo luận về các báo cáo công tác tư pháp. Không bố trí thảo luận riêng các báo cáo liên quan đến bảo hiểm y tế mà kết hợp thảo luận cùng kinh tế-xã hội.

- Xem xét bố trí thêm các phiên thảo luận được truyền hình, phát thanh trực tiếp về một số nội dung: ngân sách nhà nước; các báo cáo công tác tư pháp, phòng, chống tham nhũng, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân,… để Nhân dân theo dõi.

- Chưa thể hiện dự án đường bộ Cao tốc Bắc-Nam (phía Đông) vào dự kiến chương trình kỳ họp gửi xin ý kiến đại biểu Quốc hội, sau khi có kết luận của Bộ Chính trị và xem xét việc chuẩn bị dự án, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ quyết định việc bổ sung hoặc không bổ sung nội dung này. Ủy ban Tài chính, Ngân sách cần có văn bản đề nghị Chính phủ báo cáo Quốc hội nếu phải điều chỉnh dự toán vốn đầu tư cho Dự án này.

- Dự án chống ngập của Thành phố Hồ Chí Minh đã được ghi trong kế hoạch đầu tư công nên cần được Chính phủ sớm báo cáo Quốc hội.

- Chưa bổ sung báo cáo về việc thực hiện Nghị quyết số 88/2014/QH13 của Quốc hội về Đổi mới chương trình sách giáo khoa, giáo dục phổ thông. Đề nghị Chính phủ khẩn trương triển khai thực hiện, bảo đảm đúng tiến độ đã đề ra trong Nghị quyết của Quốc hội.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị một số vấn đề sau:

- Các cơ quan soạn thảo, cơ quan thẩm tra phối hợp rà soát, tích cực chuẩn bị các nội dung thuộc trách nhiệm của mình, bảo đảm tiến độ, chất lượng, gửi tài liệu đến đại biểu Quốc hội đúng thời hạn quy định. Báo cáo thẩm tra cần thể hiện rõ chính kiến, quan điểm của cơ quan thẩm tra.

- Chú trọng việc chuẩn bị báo cáo, tờ trình tóm tắt trình bày tại hội trường đúng thời lượng quy định (15 phút/1 văn bản) nhưng bảo đảm súc tích, thể hiện đầy đủ các vấn đề cơ bản của nội dung trình Quốc hội. Đề nghị các đồng chí Phó Chủ tịch Quốc hội chỉ đạo, kiểm tra việc chuẩn bị văn bản tóm tắt của các cơ quan hữu quan để chấp hành đúng quy định về thời gian trình bày báo cáo.

- Đối với những dự án luật trình lần 2, đề nghị lưu ý trong điều hành và gợi ý thảo luận, không đề cập vấn đề về sự cần thiết ban hành luật.

- Việc đại biểu Quốc hội vắng mặt tại các phiên họp không nên quá cứng nhắc, đại biểu khi vắng đều phải có lý do. Tuy nhiên cũng cần thực hiện nghiêm túc Nội quy kỳ họp Quốc hội.

- Sau khi tiếp thu, chỉnh lý dự kiến chương trình, Tổng Thư ký Quốc hội gửi xin ý kiến đại biểu Quốc hội; đồng thời tiếp tục phối hợp đôn đốc chuẩn bị các nội dung và điều kiện về mọi mặt cho kỳ họp, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 15 (tháng 10/2017).

17. Dự thảo Nghị định quy định về quản lý, sử dụng ngân sách nhà nước đối với một số hoạt động đối ngoại.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đồng ý với việc ban hành Nghị định nêu trên của Chính phủ. Đồng thời nhất trí một số vấn đề sau:

- Đề nghị của Chính phủ, số thu phí sau khi trừ chi phí quản lý được để lại một phần nhằm thực hiện các nhiệm vụ chi như Điều 14 dự thảo Nghị định. Dự toán thu, chi (bao gồm cả số thu về phí được để lại) thuộc lĩnh vực ngoại giao hàng năm phải được Quốc hội thông qua; các khoản vượt thu phải báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước; giao Chính phủ quy định chi tiết Điều 14 của Nghị định theo hướng cụ thể tỷ lệ thu phí được để lại, cơ cấu chi, mức chi, bổ sung tăng thu nhập và các chế độ, chính sách bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức, người lao động.

- Việc thành lập Quỹ tạm giữ ngân sách nhà nước tại Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Chính phủ cần quy định rõ ràng, bảo đảm chế độ quản lý Quỹ theo quy định của pháp luật.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ ban hành Nghị định theo thẩm quyền và chỉ đạo các Bộ có liên quan triển khai thực hiện Nghị định này đúng quy định của pháp luật.

18. Dự thảo Hiệp định khung giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Hợp chúng quốc Hoa Kỳ về hợp tác sử dụng khoảng không vũ trụ vì mục đích hòa bình; việc gia nhập Công ước Istanbul 1990 về chế độ tạm quản hàng hóa; đề xuất ký Bản ghi nhớ việc thực hiện “Thu hoạch sớm” Hiệp định Tạo thuận lợi vận chuyển người và hàng hóa qua lại biên giới giữa các nước tiểu vùng Mê Công mở rộng.

(Kết luận về 03 nội dung trên đã được thông báo tại văn bản số 1134/TB-TTKQH ngày 26/9/2017 của Tổng Thư ký Quốc hội)

19. Về chuyên đề giám sát về việc thực hiện chính sách, pháp luật đối với cá nhân, tổ chức khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản trong phát triển kinh tế biển gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh”.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Đoàn giám sát tiếp tục:

- Tổ chức nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để hoàn chỉnh Báo cáo về kết quả giám sát gửi xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội bằng văn bản để gửi đại biểu Quốc hội tại kỳ họp thứ tư (tháng 10/2017).

- Hoàn chỉnh dự thảo Nghị quyết về kết quả giám sát và đề nghị Chính phủ tham gia ý kiến bằng văn bản, gửi xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi ban hành theo quy định.

*

*      *

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khẩn trương triển khai thực hiện các kết luận, nghị quyết của phiên họp.

TỔNG THƯ KÝ

(Đã ký)

 Nguyễn Hạnh Phúc

 

 

(Văn phòng Quốc hội)