THÔNG BÁO KẾT LUẬN CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI TẠI PHIÊN HỌP THỨ 27

28/09/2018

Thực hiện chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ngày 25 tháng 9 năm 2018, Tổng Thư ký Quốc hội đã có thông báo số 2231/TB-TTKQH về Kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 27.

Toàn cảnh phiên họp thứ 27 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIV.

Từ ngày 10 đến 20/9/2018, Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp phiên thứ 27 tại Hà Nội dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân để cho ý kiến về 21 nội dung, thông qua 05 nghị quyết về một số vấn đề quan trọng khác.  

Thực hiện chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội trân trọng thông báo kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp như sau:

1. Dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi)

Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao Ủy ban Tư pháp tiếp tục phối hợp với Thanh tra Chính phủ và các cơ quan hữu quan chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật, Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật để trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6.

Về việc xử lý tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc (Điều 57 của dự thảo Luật), đề nghị tham mưu giúp Đảng đoàn Quốc hội chuẩn bị báo cáo Bộ Chính trị về 02 phương án:

- Phương án 1: Thu hồi tài sản, thu nhập tăng thêm này theo trình tự xem xét, giải quyết tại Tòa án.

- Phương án 2: Coi tài sản, thu nhập tăng thêm mà người có nghĩa vụ kê khai không giải trình được hợp lý về nguồn gốc là thu nhập chưa nộp thuế và Nhà nước sẽ thu thuế thu nhập cá nhân.

2. Dự án Luật Hành chính công

Ủy ban Thường vụ Quốc hội ghi nhận, thời gian qua, Ban soạn thảo dự án Luật đã hoạt động tích cực, trách nhiệm, nỗ lực tiến hành và cơ bản hoàn thành khối lượng lớn công việc để chuẩn bị dự án. Ban soạn thảo đã nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thường trực Ủy ban Pháp luật, của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương và cơ quan, tổ chức hữu quan. Tuy nhiên, do điều kiện thời gian cùng với khó khăn trong việc xác định rõ đối tượng, phạm vi điều chỉnh của dự án Luật, nên Ban soạn thảo có nhiều lúng túng trong xây dựng các quy định. Quá trình thảo luận về dự án Luật, nhiều ý kiến trong Ủy ban Thường vụ Quốc hội phân tích nêu rõ tính thống nhất, tính đồng bộ của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật chưa bảo đảm; tính khả thi của các quy định chưa đạt được; nhiều chính sách chưa được đánh giá tác động kỹ; việc tổng kết các quy định pháp luật hiện hành chưa toàn diện; tính quy phạm chưa bảo đảm. 

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy, hành chính công là khái niệm rất rộng, phức tạp, gồm cả thể chế, tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức, công vụ, thủ tục hành chính, tài chính công, quản trị công, công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử. Trong dự thảo Luật trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội lần trước, Ban soạn thảo chọn  phạm vi điều chỉnh gồm 06 vấn đề, nhưng lần này rút gọn lại còn 03 vấn đề là thủ tục hành chính; dịch vụ công và trách nhiệm, mối quan hệ của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong thực hiện thủ tục hành chính và dịch vụ công. Qua ý kiến của Thường trực Ủy ban Pháp luật, ý kiến tham gia của Chính phủ và ý kiến thảo luận tại phiên họp này cho thấy:

- Về thủ tục hành chính, quy định trong dự thảo Luật chưa bảo đảm tính khả thi; một số quy định còn thiếu thống nhất với quy định trong các luật hiện hành như Luật Đất đai, Luật Xây dựng, Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, Luật Hải quan và các đạo luật về thuế… Năm 2008, Chính phủ đã trình Quốc hội dự án Luật về Thủ tục hành chính, nhưng quá trình chuẩn bị đã xin rút vì không khả thi, chồng chéo với các quy định của pháp luật hiện hành. Lần này, Ban soạn thảo xây dựng Luật nhưng chỉ quy định những nguyên tắc chung, những vấn đề có tính chất định hướng, do vậy vẫn không đáp ứng được yêu cầu đổi mới, nâng cao hiệu quả của nền hành chính công, nền hành chính phục vụ. 

- Về dịch vụ công, hiện nay dịch vụ công đang được quy định trong rất nhiều luật như: Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Giáo dục, Luật Công chứng, Luật Giám định tư pháp, Luật Thể dục, thể thao, Luật Du lịch… nhưng những quy định trong dự thảo Luật Hành chính công lại chưa đầy đủ, cụ thể, còn chồng chéo với quy định hiện hành.

- Về trách nhiệm, mối quan hệ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân: triển khai thực hiện Nghị quyết số 18-NQ/TW một số vấn đề tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả và các Nghị quyết khác của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII), Chính phủ đang tiến hành sửa đổi 04 luật (Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức), trong đó có quy định trách nhiệm, mối quan hệ công tác, phân cấp, phân quyền, với tinh thần đổi mới và cải cách. Trong khi đó, quy định tại dự thảo Luật về vấn đề này còn chung chung, không cụ thể, thiếu tính quy phạm nên rất khó thực hiện.

- Về điều khoản chuyển tiếp, dự thảo Luật quy định “Thủ tục hành chính được quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành, được ban hành trước ngày Luật này có hiệu lực, chưa đáp ứng các yêu cầu quy định thực hiện thủ tục hành chính của Luật này thì tiếp tục được thực hiện cho đến khi được sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ”, nhưng trong dự thảo Luật chưa quy định cụ thể để bảo đảm tính khả thi, tính hợp lý. 

Với những hạn chế nêu trên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị không tiếp tục xây dựng dự án Luật Hành chính công để trình Quốc hội; các tài liệu về dự án Luật có giá trị nghiên cứu phục vụ cải cách nền hành chính quốc gia và tham khảo trong quá trình tổ chức xây dựng, thực hiện các đạo luật chuyên ngành.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao Ủy ban Pháp luật thẩm tra chính thức đối với dự án Luật Hành chính công theo quy định để báo cáo Quốc hội.

3. Dự án Luật Giáo dục (sửa đổi)

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao công tác phối hợp giữa Thường trực Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng và Ban soạn thảo trong việc nghiên cứu, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội. Theo đó, quan điểm chỉ đạo của Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) đã được thể chế hóa; một số chính sách mới, quan trọng đã được bổ sung để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, bảo đảm quyền và nghĩa vụ học tập của công dân. 

3.1. Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành việc sửa đổi cơ bản, toàn diện Luật Giáo dục, trình Quốc hội xem xét, thông qua theo quy trình tại 3 kỳ họp Quốc hội, theo đó Quốc hội xem xét dự án Luật tại kỳ họp thứ 6 (tháng 10/2018) và thông qua tại kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2019). 

3.2. Về nội dung, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản đồng tình với nhiều quy định trong dự thảo Luật. Tuy nhiên, để bảo đảm tính khả thi của các quy định, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị lưu ý một số nội dung sau:

- Về mục tiêu, tính chất, nguyên lý giáo dục (Điều 2, Điều 3 của dự thảo Luật), đề nghị nghiên cứu bổ sung nội dung “văn hóa” nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam.

- Đối với các chính sách, nhất là 02 chính sách mới về không thu học phí đối với trẻ em mầm non 5 tuổi, học sinh trung học cơ sở trường công lập và hỗ trợ đóng học phí đối với trẻ em, học sinh diện phổ cập tại cơ sở giáo dục dân lập, tư thục (Điều 95 của dự thảo Luật); về nâng chuẩn trình độ đào tạo đối với giáo viên mầm non từ trung cấp sư phạm lên cao đẳng sư phạm (Điều 70 của dự thảo Luật), đề nghị Ban soạn thảo cần tiếp tục đầu tư đánh giá tác động của các chính sách mới đối với các đối tượng liên quan; quy định rõ điều kiện, thời điểm, lộ trình triển khai, dự kiến nguồn lực thực hiện. Làm rõ khả năng bảo đảm ngân sách, cơ sở vật chất và các điều kiện khác khi bổ sung quy định về chính sách học phí cho đối tượng phổ cập, chính sách lương nhà giáo, tín dụng sư phạm, giáo dục hòa nhập… 

Ngoài ra, đề nghị Ban Soạn thảo xem xét, giải trình về tính khả thi của các chính sách mới được quy định trong dự thảo Luật khi nguồn lực bảo đảm chỉ giới hạn trong tỷ lệ 20% tổng ngân sách nhà nước chi cho giáo dục đào tạo. Trong điều kiện ngân sách còn hạn hẹp, trước mắt ưu tiên thực hiện chính sách trên đối với người học ở vùng miền núi, vùng có điều kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn; trẻ em có hoàn cảnh khó khăn.

- Về quản trị của cơ sở giáo dục, đề nghị cân nhắc, nghiên cứu tính khả thi của Hội đồng trường gắn với việc thực hiện quy chế dân chủ trong các cơ sở giáo dục phổ thông, giáo dục mầm non.

- Về chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, để bảo đảm thống nhất trong quan điểm và phương thức triển khai thực hiện, cần quy định rõ việc lựa chọn sách giáo khoa để sử dụng ổn định trong giảng dạy và học tập; tránh lãng phí, tạo độc quyền giáo dục trong in, phát hành sách giáo khoa. 

3.3. Đề nghị Chính phủ tiếp thu ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội, phối hợp với cơ quan chủ trì thẩm tra và cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu, giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật; hoàn thiện hồ sơ trình Quốc hội theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

3.4. Giao Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng tiếp tục nghiên cứu, thẩm tra dự án Luật Giáo dục (sửa đổi) đã được chỉnh lý, trình Quốc hội xem xét tại kỳ họp thứ 6. 

4. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục đại học

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá dự thảo Luật trình tại phiên họp này đã tiếp thu nghiêm túc ý kiến đại biểu Quốc hội, cơ bản đáp ứng yêu cầu đề ra. Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị cơ quan thẩm tra và Ban soạn thảo cần tiếp tục rà soát các quy định của dự thảo Luật, đặc biệt lưu ý các vấn đề sau:

- Giữ ổn định hệ thống, bao quát được các loại hình, mô hình cơ sở giáo dục đại học hiện có nhưng đồng thời mở hành lang pháp lý thuận lợi cho sự phát triển lớn mạnh của các trường. 

- Quy định rõ cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm thực hiện tự chủ; phân định rõ ràng, minh bạch và chế định cụ thể các trường được tự chủ và trường chưa đủ năng lực thực hiện tự chủ. Trong đó, cần làm rõ mối quan hệ giữa thiết chế Hội đồng trường và Hiệu trưởng, việc phân cấp và ủy quyền giữa Hội đồng trường và Hiệu trưởng; phân định rõ vị trí, vai trò, quyền hạn và trách nhiệm của từng chủ thể một cách hài hòa để phát huy tối đa ưu thế của tự chủ và bảo đảm chế độ trách nhiệm của cá nhân và của tập thể. 

- Cần làm rõ hơn việc phân cấp, phân quyền giữa các cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương, giữa trung ương và địa phương để bảo đảm thống nhất trong công tác quản lý nhà nước. Chú trọng công tác kiểm định các cơ sở đào tạo, chương trình đào tạo; quy định rõ điều kiện, tiêu chuẩn, trách nhiệm của tổ chức kiểm định để bảo đảm và nâng cao chất lượng công tác thẩm định, đánh giá chất lượng.

Ngoài ra, đề nghị rà soát kỹ lưỡng về các thuật ngữ và kỹ thuật lập pháp nhằm bảo đảm tính khoa học, ngắn gọn, thống nhất trong cách hiểu; bảo đảm tính tương thích trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là với Luật Giáo dục, Luật Đầu tư; hoàn thiện thêm các nội dung của dự thảo Luật, gửi xin và tiếp thu ý kiến các Đoàn đại biểu Quốc hội để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 6.

5. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự

5.1. Về phạm vi sửa đổi và tên gọi của dự thảo Luật

Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự là dự án quan trọng nhằm triển khai thi hành Hiến pháp và các đạo luật về tư pháp mới được Quốc hội thông qua; đồng thời giải quyết những vấn đề vướng mắc, bất cập trong thực tiễn thi hành án hình sự, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Trên cơ sở đề nghị của Chính phủ và ý kiến của Ủy ban Tư pháp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí chuyển dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự thành dự án Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) và giao Chính phủ chuẩn bị hồ sơ dự án Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Việc chuẩn bị dự án Luật cần quán triệt đầy đủ yêu cầu trong việc sửa đổi, hoàn thiện đạo luật về trình tự, thủ tục tư pháp, cụ thể là: bảo đảm tính minh bạch, khả thi và thi hành được ngay, tránh việc chờ đợi các văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành. Đồng thời, cần rà soát đầy đủ các điều ước quốc tế, nội luật hóa, bảo đảm tính thống nhất của Luật với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

5.2. Về các nội dung cụ thể của dự thảo Luật

- Về thi hành án hình sự đối với pháp nhân thương mại, cần quy định cụ thể thẩm quyền, trình tự, thủ tục, nhiệm vụ, quyền hạn của các chủ thể; xác định rõ cơ quan chủ trì, cơ quan tham gia, cơ quan phối hợp trong thi hành từng loại hình phạt; việc giải quyết hậu quả của việc thi hành hình phạt áp dụng đối với pháp nhân thương mại, đặc biệt là trong trường hợp hình phạt được áp dụng là đình chỉ vĩnh viễn hoạt động của pháp nhân thương mại. 

- Về thi hành quyết định tha tù trước thời hạn có điều kiện, cần bổ sung quy định cụ thể về thẩm quyền, trình tự, thủ tục thi hành quyết định của Tòa án về tha tù trước thời hạn có điều kiện; quyền, nghĩa vụ của người được tha tù trước thời hạn có điều kiện; nhiệm vụ, quyền hạn của chủ thể được giao quản lý người được tha tù trước thời hạn có điều kiện; điều kiện, trình tự, thủ tục xét miễn, giảm thời gian thử thách đối với người được tha tù trước thời hạn có điều kiện.

- Về cụ thể hóa Hiến pháp về quy định quyền, nghĩa vụ của phạm nhân, phương án quy định tại Điều 25a chưa bảo đảm yêu cầu áp dụng thống nhất cũng như chưa giải quyết được vướng mắc phát sinh trong thực tiễn thi hành án phạt tù. Cơ quan chủ trì soạn thảo phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát, các luật liên quan, xây dựng phương án quy định cụ thể về quyền, nghĩa vụ và việc hạn chế các quyền cơ bản của phạm nhân theo yêu cầu của Hiến pháp, phù hợp với điều kiện thực tiễn và bảo đảm tính khả thi.

- Về tổ chức lao động đối với phạm nhân, cần thống nhất nguyên tắc: bảo đảm quyền lao động của phạm nhân và mục đích giáo dục cải tạo phạm nhân thông qua lao động; lao động trên cơ sở tự nguyện của phạm nhân và có sự phối hợp giữa trại giam với tổ chức kinh tế để có hình thức tổ chức lao động phù hợp. 

Đối với quy định về tổ chức điểm lao động cho phạm nhân ngoài khu vực trại giam hiện còn ý kiến khác nhau. Giao cơ quan chủ trì soạn thảo, cơ quan thẩm tra và các cơ quan liên quan trao đổi thống nhất, xây dựng phương án cụ thể, bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội. 

- Giao Ủy ban về các vấn đề Xã hội, trong phạm vi lĩnh vực phụ trách tổ chức lấy ý kiến, tham gia thẩm tra dự án Luật về các vấn đề liên quan đến giới, quyền con người, chế độ lao động và tổ chức lao động đối với phạm nhân, quyền công dân của phạm nhân, kể cả phạm nhân chấp hành án tử hình. 

5.3. Về thời điểm xem xét, thông qua dự án Luật

Giao Chính phủ nghiên cứu, tiếp thu tối đa ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ý kiến của cơ quan chủ trì và cơ quan tham gia thẩm tra; phối hợp với Ủy ban Tư pháp hoàn thiện dự án Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) trình Quốc hội cho ý kiến về những vấn đề lớn, những chính sách mới tại kỳ họp thứ 6. Việc xem xét, thông qua dự án Luật này tại 2 hoặc 3 kỳ họp do Quốc hội thảo luận, quyết định.

6. Dự án Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản tán thành với sự cần thiết phải ban hành Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia; nhất trí với Báo cáo thẩm tra sơ bộ của Thường trực Ủy ban về các vấn đề Xã hội. Đồng thời, đề nghị Chính phủ tiếp thu, hoàn chỉnh dự án Luật theo Báo cáo thẩm tra sơ bộ của Ủy ban về các vấn đề Xã hội và ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong đó lưu ý một số vấn đề sau:

- Tiếp tục cân nhắc kỹ về tên gọi của Luật và kinh phí phục vụ hoạt động phòng, chống tác hại của rượu, bia để trình Quốc hội thảo luận.

- Về phạm vi điều chỉnh dự thảo Luật, nghiên cứu để thể hiện rõ mục tiêu thực hiện các biện pháp bảo vệ sức khỏe người dân khỏi tác hại của rượu, bia thông qua việc quy định các biện pháp giảm mức tiêu thụ rượu, bia; quản lý việc cung cấp, hạn chế tính sẵn có, tính có sẵn của rượu, bia; giảm tác hại và bảo đảm nguồn lực để phòng, chống tác hại của rượu, bia; kinh phí được dự toán chung trong dự toán ngân sách hằng năm, không nên ưu tiên trích từ số thu từ thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu, bia.

- Về điều kiện kinh doanh rượu, bia, đề nghị Ban soạn thảo rà soát để quy định vấn đề này phù hợp với quy định của Luật Đầu tư về ngành nghề kinh doanh có điều kiện và các văn bản pháp luật có liên quan.

- Về rượu thủ công, cần có quy định và lộ trình quản lý phù hợp để có thể kiểm soát tốt chất lượng, điều kiện bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm đối với rượu thủ công.

- Về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cần quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc phòng, chống tác hại của rượu, bia; đặc biệt là cơ chế thực hiện, kiểm tra, quản lý, giám sát, xử lý vi phạm để đảm bảo tính khả thi của dự thảo Luật. 

- Rà soát lại các quy định của dự thảo Luật để đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật và tính tương thích với điều ước quốc tế có liên quan; tính thống nhất giữa các quy định trong dự thảo Luật. 

- Tiếp tục hoàn thiện hồ sơ dự án Luật, trong đó, rà soát và chỉnh lý Báo cáo đánh giá tác động của chính sách, đánh giá tác động nghiêm túc các chính sách mới của dự án Luật so với chính sách được nêu tại Đề xuất xây dựng dự án Luật; Báo cáo đánh giá tác động về thủ tục hành chính; Báo cáo tổng kết thi hành đầy đủ các văn bản pháp luật có liên quan đến phòng, chống tác hại của rượu, bia; bổ sung dự thảo các văn bản hướng dẫn thi hành Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ, cơ quan chủ trì thẩm tra phối hợp với các cơ quan hữu quan tiếp tục nghiên cứu, thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về công tác bảo vệ, chăm sóc, nâng cao sức khỏe nhân dân; khắc phục những vướng mắc, bất cập, hạn chế của pháp luật phòng, chống tác hại rượu, bia hiện hành; tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp để hoàn thiện, nâng cao chất lượng dự án Luật, bảo đảm tính khả thi, phù hợp với thực tiễn, trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6.

7. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung các luật có quy định liên quan đến quy hoạch

Dự án Luật sửa đổi, bổ sung các luật có quy định liên quan đến quy hoạch là dự án luật phức tạp, có phạm vi rộng, liên quan đến 37 luật hiện hành thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, trong khi thời gian triển khai ngắn, phải thông qua theo quy trình một kỳ họp để có hiệu lực từ ngày 01/01/2019, cùng với hiệu lực thi hành của Luật Quy hoạch. Để bảo đảm chất lượng dự án Luật trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Chính phủ chỉ đạo Ban soạn thảo và các cơ quan có liên quan:

- Rà soát, đối chiếu tất cả các luật, pháp lệnh có liên quan, bảo đảm tính thống nhất trong mỗi đạo luật, không trùng lặp, không xung đột giữa các văn bản trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là với Luật Quy hoạch;

- Chỉ chỉnh sửa những vấn đề liên quan đến quy hoạch và bảo đảm đồng bộ với Luật Quy hoạch, không sửa đổi các nội dung không liên quan đến quy hoạch;

- Bảo đảm thứ bậc của các loại quy hoạch theo đúng quy định của Luật Quy hoạch. Không được quy định cùng một cấp có hai quy hoạch có giá trị pháp lý ngang nhau. Các quy hoạch mang tính kỹ thuật chuyên ngành chỉ để cụ thể hóa quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh; 

- Quy hoạch xây dựng là quy hoạch có tính chất kỹ thuật chuyên ngành, cụ thể hóa quy hoạch tỉnh. Quy hoạch xây dựng ở cấp tỉnh (nếu có) chỉ là quy hoạch có tính chất kỹ thuật, chuyên ngành, cụ thể hóa cho quy hoạch tỉnh, không phải là quy hoạch ngang cấp với quy hoạch tỉnh. Những nội dung của quy hoạch xây dựng ở cấp tỉnh chồng chéo, trùng lặp với quy hoạch tỉnh đều phải loại bỏ.

Giao Ủy ban Kinh tế tiếp tục nghiên cứu, tiến hành thẩm tra chính thức và phản ánh đầy đủ các ý kiến khác nhau, đa chiều để đại biểu Quốc hội có đầy đủ thông tin thảo luận tại kỳ họp Quốc hội.

8. Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư công

Về phạm vi sửa đổi, đề nghị thực hiện đúng Nghị quyết số 57/2018/QH14 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, điều chỉnh chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018. Theo đó, chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự vướng mắc đã được đánh giá tác động, đảm bảo sự thống nhất của Luật này với hệ thống pháp luật. 

 Về nội dung dự thảo Luật, đề nghị rà soát lại tính khả thi, tính cụ thể, phạm vi áp dụng, phân loại dự án, phân cấp, phân quyền, trình tự, thủ tục thẩm định, quyết định, các điều khoản chuyển tiếp, thời điểm có hiệu lực thi hành của dự án Luật này, đảm bảo tuân thủ Hiến pháp, pháp luật đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công; hạn chế thủ tục rườm rà, phức tạp; đảm bảo nguyên tắc ngân sách phải được quản lý, giám sát chặt chẽ, về kỹ thuật lập pháp bảo đảm sự ổn định của các chương, mục, điều, khoản. 

Về tiến độ, đề nghị Chính phủ khẩn trương, tiếp thu, hoàn chỉnh hồ sơ dự án Luật; Ủy ban Tài chính, Ngân sách tiến hành thẩm tra; trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6. 

9. Dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi)

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí việc sửa đổi toàn diện Luật Quản lý thuế để đáp ứng yêu cầu quản lý thuế trong tình hình hiện nay. Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát, bổ sung đánh giá tác động về một số vấn đề có liên quan, bảo đảm tính khả thi, tính cụ thể và tính thống nhất của dự án Luật, phù hợp với hệ thống pháp luật có liên quan tập trung vào một số nội dung cụ thể như sau:

- Làm rõ những điểm mới, có tính đột phá trong việc sửa đổi toàn diện dự án Luật lần này để xử lý, khắc phục tối đa những tồn tại trước đây về tình trạng chuyển giá, nợ đọng thuế, hoàn thuế; hạn chế dần sự can thiệp trực tiếp của cán bộ quản lý thu thuế vào những khâu trong quá trình quản lý thu thuế; dễ xảy ra tình trạng móc ngoặc, thông đồng giữa người nộp thuế và cán bộ quản lý thuế, đẩy mạnh áp dụng công nghệ thông tin, quản lý thuế đối với các giao dịch thương mại điện tử… 

- Bổ sung đánh giá tác động của việc mở rộng phạm vi của dự thảo Luật, nhất là khoản thu khác thuộc ngân sách nhà nước nhưng không do cơ quan quản lý thuế thu; làm rõ về trình tự, thủ tục quản lý đối với các khoản thu này.

- Rà soát lại các vấn đề liên quan đến trình tự quản lý thu thuế, nhất là vấn đề về khoanh nợ, xóa nợ, xử phạt hành chính thuế; áp dụng biện pháp quản lý rủi ro; mối quan hệ với hệ thống các ngân hàng thương mại và các nội dung quy định tại điều cấm... để bảo đảm tính khả thi, hiệu quả trong quản lý thuế và góp phần cải cách thủ tục hành chính thuế.

- Rà soát lại nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong bộ máy nhà nước liên quan đến công tác quản lý thuế, trong đó có nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội, Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, các bộ, ngành có liên quan đảm bảo phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật có liên quan, tránh xung đột pháp luật. 

 - Cân nhắc thêm về nội dung về điều tra thuế, nếu Chính phủ thấy cần thiết để Quốc hội xem xét thì phải bổ sung vào dự thảo Luật một chương riêng và có đánh giá cụ thể bảo đảm tính khả thi, có sức thuyết phục về nội dung này trong Tờ trình.

- Về kỹ thuật lập pháp, đề nghị Chính phủ lưu ý trong quá trình sửa đổi Luật cần giữ lại thứ tự của các chương, mục, điều, khoản như các luật khác. 

Đề nghị Chính phủ tiếp thu đầy đủ ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội, hoàn chỉnh hồ sơ; giao Ủy ban Tài chính, Ngân sách thẩm tra chính thức, trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6.

10. Việc triển khai chuẩn bị công tác lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao tinh thần trách nhiệm, chủ động của Ban Công tác đại biểu trong việc chuẩn bị hồ sơ các văn bản, tài liệu liên quan đến việc tổ chức triển khai lấy phiếu tín nhiệm ở Quốc hội tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV và các dự thảo văn bản Hướng dẫn Hội đồng nhân dân về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Hội đồng nhân dân bầu. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất như sau:

10.1. Về việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn

a) Giao Ban Công tác đại biểu có văn bản đề nghị người được lấy phiếu tín nhiệm chuẩn bị các văn bản theo quy định tại Nghị quyết 85/2014/QH13, gửi kèm theo mẫu. Cụ thể:

- Về Báo cáo của người được lấy phiếu tín nhiệm: 

+ Thời gian báo cáo: tính từ thời điểm được Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.

+ Nội dung báo cáo: súc tích, đầy đủ các nội dung theo quy định tại Điều 5 của Nghị quyết 85/2014/QH13; có độ dài từ 4-5 trang, đánh máy và in trên giấy khổ A4. Báo cáo của người được lấy phiếu tín nhiệm cần bổ sung nội dung tự đánh giá, kiểm điểm về việc có hay không những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII); tự đánh giá, kiểm điểm về việc thực hiện việc sắp xếp bộ máy, tinh giản biên chế ở cơ quan, tổ chức, đơn vị mình theo Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương (khóa XII) và Nghị quyết số 56/2017/QH14 ngày 24/11/2017 về việc tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

- Về kê khai tài sản, thu nhập, thực hiện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 17 của Nghị định 78/2013/NĐ-CP ngày 17/7/2013 của Chính phủ về minh bạch tài sản, thu nhập và Thông tư số 08/2013/TT-TTCP ngày 31/10/2013 của Thanh tra Chính phủ hướng dẫn thi hành các quy định về minh bạch tài sản, thu nhập. 

b) Thời điểm trình Quốc hội lấy phiếu tín nhiệm: đầu kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV.

c) Về phiếu tín nhiệm: gồm các loại phiếu theo quy định tại Điều 16 của Nghị quyết 85/2014/QH13.

d) Đối với người đồng thời giữ nhiều chức vụ thì việc lấy phiếu tín nhiệm được thực hiện một lần đối với chức vụ cao nhất.

e) Trình Quốc hội danh sách những người được lấy phiếu tín nhiệm tại kỳ họp thứ 6.

10.2. Về hướng dẫn một số nội dung về tổ chức lấy phiếu tín nhiệm tại Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021

Nhất trí ban hành văn bản Hướng dẫn việc lấy phiếu tín nhiệm tại Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2016-2021 để giúp Hội đồng nhân dân các tỉnh, thành phố chuẩn bị chu đáo việc tổ chức triển khai lấy phiếu tại kỳ họp thường lệ cuối năm 2018.

Giao Ban Công tác đại biểu tiếp tục rà soát các văn bản hướng dẫn liên quan đến việc lấy phiếu tín nhiệm, các ý kiến tại Hội nghị Thường trực Hội đồng nhân dân các khu vực, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Hướng dẫn, đồng thời chuẩn bị bộ tài liệu các văn bản về việc thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm trên cơ sở kinh nghiệm các lần lấy phiếu tín nhiệm trước đây để gửi tới Hội đồng nhân dân tham khảo.

11. Các báo cáo của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2018

11.1. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao sự chuẩn bị và tán thành với nhiều nội dung trong Báo cáo của Chính phủ, báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật và nhận thấy công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong năm 2018 của Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã có nhiều chuyển biến tích cực.

Trên cơ sở ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và báo cáo của Thường trực Ủy ban Pháp luật, đề nghị Chính phủ chỉ đạo rà soát, nghiên cứu tiếp thu bổ sung, hoàn chỉnh Báo cáo để trình Quốc hội, trong đó phân tích làm rõ thêm các số liệu, đánh giá cụ thể hơn về nguyên nhân của tình hình tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2018 so với năm 2017 để làm nổi bật thêm những nỗ lực của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương; phân tích cụ thể hơn những tồn tại, hạn chế, bất cập trong những năm qua; đưa ra các giải pháp căn cơ, cốt lõi để khắc phục dứt điểm các tồn tại, hạn chế, bất cập, phấn đấu làm tốt hơn công tác này trong thời gian tới.

Giao Ủy ban Pháp luật thẩm tra chính thức Báo cáo của Chính phủ trước khi trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6.

11.2. Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí với nhiều nội dung trong Báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp. Đồng thời, lưu ý một số vấn đề sau:

- Mặc dù kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo năm 2018 của các cơ quan tư pháp có nhiều chuyển biến tích cực; tuy nhiên, một số chỉ tiêu chưa đạt yêu cầu theo Nghị quyết của Quốc hội. 

- Yêu cầu các cơ quan tư pháp thực hiện nghiêm các quy định của pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo như: Luật Tiếp công dân, Luật Khiếu nại và nhất là Luật Tố cáo mới được ban hành. Đề nghị các cơ quan tư pháp tiếp tục triển khai nhiều giải pháp nâng cao chất lượng giải quyết các vụ án, vụ việc, hạn chế nguyên nhân làm phát sinh khiếu nại, tố cáo. Tòa án nhân dân tối cao ban hành quy chế về đạo đức, trách nhiệm công vụ, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Viện Kiểm sát nhân dân tối cao khẩn trương ban hành quy trình giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp.

- Đề nghị Ủy ban Tư pháp hoàn thiện báo cáo thẩm tra về phần kiến nghị, đưa ra các giải pháp cụ thể, để giải quyết được những tồn tại, hạn chế, bất cập trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc trách nhiệm của ngành tòa án nhân dân và ngành kiểm sát nhân dân đã tồn tại qua nhiều năm.

12. Báo cáo công tác năm 2018 và kế hoạch kiểm toán năm 2019 của Kiểm toán Nhà nước

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí với báo cáo đánh giá công tác năm 2018 và dự kiến kế hoạch kiểm toán năm 2019 của Kiểm toán Nhà nước và đề nghị Kiểm toán Nhà nước hoàn thiện các báo cáo, tập trung nhấn mạnh, làm rõ, nổi bật việc thực hiện nhiệm vụ trong năm 2018, đưa ra giải pháp khắc phục các tồn tại, hạn chế trong thời gian tới để gửi Quốc hội tại kỳ họp thứ 6 theo quy định. Đồng thời đề nghị Kiểm toán Nhà nước lưu ý một số nội dung sau:

- Tập trung kiểm toán phục vụ cho công tác quyết toán ngân sách nhà nước năm 2018, kiểm toán định kỳ theo quy định của các luật liên quan lưu ý đến các nhiệm vụ đã được nêu trong Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, Ngân sách và ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

- Điều chỉnh nhiệm vụ kiểm toán được giao theo Nghị quyết số 60/2018/QH14 của Quốc hội sang kiểm toán việc quản lý, sử dụng đất trong và sau quá trình cổ phần hóa của doanh nghiệp nhà nước giai đoạn 2011-2017. Kiểm toán Nhà nước báo cáo Quốc hội để xem xét, điều chỉnh.

- Sớm triển khai kiểm toán lĩnh vực quản lý, sử dụng đất để phục vụ chuyên đề giám sát của Quốc hội.

- Tăng cường thanh tra, kiểm soát, đánh giá chất lượng đối với các đoàn kiểm toán; kiểm tra, kiểm soát nhằm nâng cao kỷ luật, việc thực hiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, quy tắc ứng xử của kiểm toán viên.

- Lưu ý tiến độ, khẩn trương đề xuất để bổ sung vào chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 đối với dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kiểm toán Nhà nước; bám sát tinh thần chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương tại Kế hoạch 07-KH/TW, rà soát, đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến tổ chức bộ máy; việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, phạm vi hoạt động, mối quan hệ của Kiểm toán Nhà nước với các cơ quan liên quan, bảo đảm tránh chồng chéo, trùng lặp trong hoạt động.

13. Bản ghi nhớ giữa Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên Hợp quốc về đóng góp nguồn lực tới Phái bộ Gìn giữ hòa bình Liên Hợp quốc tại Cộng hòa Nam Xu-đăng

(Nội dung này có văn bản riêng thông báo ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội).

14. Báo cáo của Chính phủ về tình hình thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản thống nhất với Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra sơ bộ của Thường trực Ủy ban Pháp luật và nhận thấy trong năm qua Chính phủ đã có nhiều cố gắng, đạt được những kết quả tích cực trong việc triển khai thi hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội. 

Trên cơ sở ý kiến của các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thường trực Ủy ban Pháp luật, Chính phủ cần làm rõ hơn bối cảnh của tình hình triển khai công tác này trong năm 2018, nhất là đặc thù triển khai các nghị quyết Trung ương; đánh giá bao quát, toàn diện hơn tác động về mặt hiệu quả kinh tế-xã hội, đến mọi mặt của đời sống và hội nhập quốc tế của công tác xây dựng thể chế; làm rõ hơn những tồn tại, hạn chế đã được nêu ra nhiều năm qua; các giải pháp về công tác tổ chức thực hiện pháp luật; chú trọng hơn đến công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, việc thực thi trách nhiệm của cán bộ, công chức. Trên cơ sở đó, chỉnh sửa tên gọi của Báo cáo cho phù hợp và bao quát nội dung.

Trong thời gian tới, Chính phủ cần rà soát danh mục các văn bản cần được ban hành theo Kế hoạch triển khai thi hành Hiến pháp (ban hành kèm theo Nghị quyết 718/NQ-UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội) để báo cáo rõ với Quốc hội trong quá trình xem xét, quyết định Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh các năm tiếp theo. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với kiến nghị giao Chính phủ thực hiện việc tổng kết 5 năm triển khai thi hành Hiến pháp, trong đó tổng kết, đánh giá cụ thể việc thực hiện Nghị quyết số 64/2013/QH13 của Quốc hội và Nghị quyết 718/NQ-UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ủy ban Pháp luật tổ chức thẩm tra chính thức đối với Báo cáo của Chính phủ trước khi gửi Quốc hội tại kỳ họp thứ 6.

15. Các báo cáo công tác của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao; các báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác thi hành án và công tác phòng, chống tham nhũng năm 2018

Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành với nhiều nội dung trong các báo cáo của Chính phủ về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác thi hành án, công tác phòng, chống tham nhũng; các báo cáo công tác của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao năm 2018 và tán thành Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp về các báo cáo nêu trên. Các báo cáo đã được chuẩn bị nghiêm túc, trách nhiệm, cơ bản phản ánh được tình hình cũng như kết quả đạt được, chưa đạt được, nguyên nhân của các tồn tại, hạn chế trong công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác thi hành án, công tác phòng, chống tham nhũng, cũng như trong công tác của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao năm 2018; đồng thời, đề ra được phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp trong thời gian tới.

Các cơ quan đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ và đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần vào việc phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công dân và hội nhập quốc tế. Khẳng định được vị thế, vai trò của các cơ quan tư pháp trong nhà nước pháp quyền.

Năm 2018, tình hình tội phạm vẫn còn diễn biến phức tạp, có một số loại tội phạm có chiều hướng tăng, nhất là tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Trước tình hình đó, các cơ quan tư pháp đã có nhiều đổi mới theo tinh thần cải cách tư pháp, hoạt động tranh tụng được đề cao; công tác chống oan sai, chống bỏ lọt tội phạm được chú trọng; tôn trọng vai trò của luật sư trong tố tụng, công khai bản án trên Cổng thông tin điện tử, cải tiến phòng xét xử… Kết quả công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án cơ bản đạt và vượt các tiêu chí được giao trong các nghị quyết của Quốc hội. Tình hình oan, sai giảm so với các năm trước, chưa phát hiện trường hợp nào kết án oan người vô tội. Án bị hủy, sửa do lỗi chủ quan giảm, án tuyên không rõ, khó thi hành cũng giảm so với các năm trước. Tình hình thi hành án có nhiều chuyển biến tích cực, số việc thi hành án và số tiền phải thi hành án vẫn tăng cao hơn so với các năm trước nhưng tỷ lệ số vụ án và tỷ lệ số tiền đối với các vụ án có điều kiện thi hành đạt cao hơn năm 2017.

Công tác xây dựng pháp luật, ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các bộ luật, luật về lĩnh vực tư pháp được các cơ quan tiếp tục quan tâm thực hiện; đồng thời, kiện toàn đội ngũ cán bộ và tiếp tục chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao đạo đức nghề nghiệp cho các chức danh tư pháp.

Về cơ sở, vật chất phục vụ hoạt động của các cơ quan tư pháp: Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao quan tâm, ưu tiên bố trí nguồn ngân sách nhà nước để đầu tư xây dựng trụ sở của các cơ quan tư pháp theo đúng Nghị quyết của Quốc hội. Đồng thời, đề nghị Chính phủ tiếp tục quan tâm trang bị cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho các cơ quan tư pháp để bảo đảm thực hiện tốt các thẩm quyền mới theo quy định của luật, trong quá trình triển khai có vướng mắc đề nghị các cơ quan báo cáo Quốc hội, xem xét có giải pháp khắc phục kịp thời. 

Về công tác phòng, chống tham nhũng, với sự chỉ đạo quyết liệt từ Trung ương, nhất là Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, công tác phòng, chống tham nhũng đã có những chuyển biến và đạt được nhiều kết quả tích cực so với các năm trước. Nhiều vụ án lớn, nghiêm trọng, phức tạp về kinh tế, tham nhũng, dư luận xã hội quan tâm đã được đưa ra xét xử, được dư luận rất đồng tình, đánh giá cao. Công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế tiếp tục được quan tâm, đặc biệt là dự án Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) đã được tích cực chỉnh lý, hoàn thiện để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 6. Cải cách bộ máy nhà nước, cải cách thủ tục hành chính, cải cách tư pháp có nhiều đổi mới. Việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng được quan tâm, đẩy mạnh. Công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử được tăng cường. Việc phát hiện và xử lý hành vi tham nhũng có nhiều chuyển biến tích cực, trong đó nhiều vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, gây thất thoát lớn tài sản của Nhà nước… được phát hiện và xử lý nghiêm minh, đã tạo được sự đồng thuận trong cán bộ, đảng viên và Nhân dân, được dư luận đánh giá cao, củng cố lòng tin của Nhân dân vào quyết tâm chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước. 

Tuy nhiên, tình hình tham nhũng năm 2018 vẫn còn diễn biến phức tạp; việc triển khai thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng như việc công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; thực hiện trách nhiệm giải trình; chuyển đổi vị trí công tác; thực hiện quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức... vẫn còn những hạn chế, bất cập. Việc phát hiện, xử lý, thu hồi tài sản tham nhũng tuy đã chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu.

Về kiến nghị của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao: Ủy ban Thường vụ Quốc hội ghi nhận và tiếp tục chỉ đạo tăng cường hơn nữa công tác giám sát đối với hoạt động tư pháp và phòng, chống tham nhũng. Trong công tác xây dựng pháp luật: đề nghị các cơ quan được giao trách nhiệm hoàn thiện hồ sơ dự án Luật theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để báo cáo Quốc hội. 

Đề nghị Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục hoàn thiện các báo cáo công tác để trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6.

16. Đề án và dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thí điểm hợp nhất Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh

Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành với chủ trương và nhiều nội dung của Đề án và dự thảo Nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc thí điểm hợp nhất Văn phòng Đoàn đại biểu Quốc hội, Văn phòng Hội đồng nhân dân và Văn phòng Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. 

Giao Văn phòng Quốc hội xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội về những nội dung còn có ý kiến khác nhau; phối hợp với Ủy ban Pháp luật và các cơ quan hữu quan tiếp thu, hoàn thiện dự thảo Nghị quyết, gửi dự thảo lấy ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi hoàn chỉnh, trình Chủ tịch Quốc hội ký ban hành.

17. Phương án phân bổ, sử dụng nguồn kinh phí còn lại và xử lý vướng mắc trong việc chuyển nguồn kinh phí thường xuyên của ngân sách trung ương năm 2017 

Việc phân bổ nguồn kinh phí còn lại năm 2017 (theo Tờ trình số 10/TTr-CP ngày 26/7/2018 của Chính phủ) không thuộc thẩm quyền quyết định của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đề nghị Chính phủ rà soát, thực hiện đúng theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và Luật Đầu tư công. 

Việc sử dụng dự phòng ngân sách trung ương để bù đắp hụt thu của năm 2017 là 5.894 tỷ đồng thuộc thẩm quyền của Chính phủ quyết định theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. 

Đề nghị Chính phủ thu hồi, hủy bỏ các khoản cắt giảm chi của các bộ, ngành, các khoản hết năm mà chưa sử dụng hết do triển khai chậm hoặc nhu cầu thực tế phát sinh thấp hơn dự kiến, các khoản phê duyệt chậm, các khoản chuyển nguồn chi thường xuyên của năm 2017 theo đúng quy định tại khoản 3 Điều 64 của Luật Ngân sách nhà nước.

Đề nghị Chính phủ rà soát các khoản chi thật sự cần thiết, cấp bách, có tờ trình báo cáo Quốc hội quyết định theo đúng quy định của Luật Ngân sách nhà nước, bảo đảm không để nợ chính sách đối với người có công, đối với vùng dân tộc, miền núi, 2 chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững và một số chính sách quan trọng khác. Trong đó: những khoản có thể chi hết, giải ngân ngay được trong năm 2018 thì bổ sung dự toán năm 2018, nếu đến 31/12/2018 không chi thì tiếp tục thu hồi; những khoản phải triển khai sang năm 2019 thì đưa vào dự toán ngân sách nhà nước năm 2019. 

Chính phủ rà soát lại các khoản chi có tính chất xây dựng cơ bản thuộc nhiệm vụ quốc phòng, an ninh... đề nghị thực hiện theo đúng Luật Đầu tư công, được phép chuyển nguồn, không được chuyển nguồn các khoản chi thường xuyên theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước.

Chính phủ khẩn trương rà soát, hoàn chỉnh nội dung trình Quốc hội; giao Ủy ban Tài chính, Ngân sách thẩm tra để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến tại phiên họp thứ 28, trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIV.

18. Phương án bổ sung kế hoạch đầu tư vốn nước ngoài giai đoạn 2016-2020 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí về nguyên tắc, cho phép Chính phủ giải ngân khoản vốn vay ưu đãi của Ngân hàng thế giới cho Dự án Hệ thống thông tin quản lý và hiện đại hóa ngân hàng (Dự án FSMIMS) theo tiến độ đã cam kết với Nhà tài trợ; trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 6 xem xét, quyết định bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, dự toán ngân sách nhà nước năm 2018 theo đúng quy định của Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách nhà nước. 

19. Báo cáo của Chính phủ về việc thực hiện Nghị quyết số 76/2014/QH13 về đẩy mạnh thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững đến năm 2020 (gọi tắt là Nghị quyết 76)

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản thống nhất với đánh giá của Chính phủ, ý kiến thẩm tra của Ủy ban về các vấn đề Xã hội về kết quả thực hiện Nghị quyết 76 trong 02 năm 2017-2018. Những kết quả đạt được tiếp tục khẳng định sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, nỗ lực chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững, chưa đồng đều, tiến độ thực hiện một số nhiệm vụ còn chậm. Đề nghị Chính phủ trong 02 năm tới tập trung chỉ đạo các địa phương giải quyết dứt điểm số hộ nghèo là gia đình có công với cách mạng; không cắt giảm, điều chỉnh nguồn lực cho giảm nghèo; thực hiện tốt hơn những chính sách đã ban hành, không ban hành chính sách mới chưa được dự toán hoặc không có nguồn lực để thực hiện; nghiên cứu phương án sử dụng nguồn 3.600 tỷ đồng trích khấu hao của Điện lực Việt Nam để đầu tư trở lại cho đồng bào các tỉnh bị ảnh hưởng bởi các công trình thủy điện lớn, chú trọng đầu tư cho hạ tầng giao thông tới thôn, bản; tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức trong cả hệ thống chính trị, hạn chế tư tưởng trông chờ, ỷ lại; đẩy mạnh công tác phối hợp liên ngành, nhất là ở địa phương.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ và Ủy ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội tiếp thu ý kiến tại phiên họp để hoàn chỉnh các báo cáo. Trong đó, chú ý rà soát, điều chỉnh, bổ sung số liệu thống nhất với thời điểm báo cáo 2017-2018; bám sát Nghị quyết 76 để đánh giá về khả năng đạt được các mục tiêu đến năm 2020, có định hướng, giải pháp cụ thể để thực hiện các nhiệm vụ có trọng tâm, trọng điểm; kiến nghị thiết thực, hợp lý với Quốc hội. 

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất chủ trương tổ chức hoạt động giám sát và tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 76 vào năm 2020, làm cơ sở xem xét, điều chỉnh chính sách giảm nghèo trong giai đoạn sau. Giao Ủy ban về các vấn đề Xã hội tiếp tục giám sát chuyên đề; Hội đồng Dân tộc thúc đẩy việc xây dựng, ban hành bộ tiêu chí để phân định vùng nghèo, địa phương nghèo theo trình độ phát triển và đặc điểm về địa lý tự nhiên. 

20. Báo cáo tổng hợp của Chính phủ, báo cáo của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao và cá nhân có liên quan về việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn tại kỳ họp

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao sự nỗ lực, tích cực, nghiêm túc của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, các bộ, ngành trong việc triển khai các Nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn và trả lời chất vấn; đánh giá cao Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và Tổng Thư ký Quốc hội đã chủ động, tích cực trong công tác thẩm tra, tổng hợp kết quả thẩm tra, chuẩn bị nội dung báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Báo cáo của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã bám sát đề cương, nêu rõ các kết quả đạt được cũng như các nội dung chưa đạt đối với từng yêu cầu trong Nghị quyết của Quốc hội. Báo cáo thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và báo cáo tổng hợp nội dung thẩm tra của Tổng Thư ký Quốc hội cũng cơ bản bám sát yêu cầu, đưa ra những nhận định đánh giá cụ thể, làm cơ sở để Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, thảo luận.

Tuy nhiên, đề nghị các cơ quan lưu ý một số vấn đề sau: Báo cáo đối với các lĩnh vực vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế, có nhiều nội dung chưa triển khai đầy đủ, đúng với yêu cầu của Quốc hội, có những nội dung Quốc hội yêu cầu cụ thể, thời gian cụ thể nhưng kết quả chuyển biến còn chậm. Còn nhiều nội dung báo cáo mới chỉ dừng ở việc định tính, đánh giá chung chung, chưa phân tích, đánh giá được nguyên nhân, trách nhiệm. Việc gửi báo cáo còn chậm. Một số nội dung thẩm tra chưa chỉ rõ việc nào đã hoàn thành tốt, việc nào chưa hoàn thành, không đạt yêu cầu. 

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị các cơ quan thực hiện các nội dung sau:

- Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao nghiên cứu tiếp thu ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội, tiếp tục cập nhật số liệu đến 15/9/2018, hoàn thiện báo cáo, gửi các vị đại biểu Quốc hội theo quy định và gửi đến Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội để thẩm tra chậm nhất là ngày 30/9/2018. 

- Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội hoàn thiện báo cáo thẩm tra, gửi các vị đại biểu Quốc hội theo quy định và gửi Tổng Thư ký Quốc hội chậm nhất là ngày 05/10/2018 để hoàn thiện báo cáo tổng hợp. 

- Báo cáo thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, báo cáo tổng hợp nội dung thẩm tra của Tổng Thư ký Quốc hội và báo cáo của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao cần có sự thống nhất về thông tin, số liệu, qua đó làm cơ sở cho đại biểu Quốc hội thảo luận, đánh giá và chất vấn về việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn tại kỳ họp thứ 6. 

21. Chuẩn bị kỳ họp thứ 6 của Quốc hội

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản thống nhất với Báo cáo của Tổng Thư ký Quốc hội, đồng thời, đề nghị Tổng Thư ký Quốc hội phối hợp với các cơ quan hữu quan nghiên cứu tiếp thu các ý kiến tại phiên họp, chỉnh lý dự kiến chương trình kỳ họp cho phù hợp, trong đó chú ý một số vấn đề sau:

- Chưa trình dự án Luật Đơn vị hành chính-kinh tế đặc biệt để có thêm thời gian tiếp tục hoàn thiện. Rút 02 nội dung: dự án Luật Hành chính công; Báo cáo Kiểm toán quỹ bảo hiểm xã hội. Bổ sung dự án Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia trình Quốc hội cho ý kiến.

- Bố trí Quốc hội thảo luận về công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân năm 2018 (có truyền hình, phát thanh trực tiếp); thảo luận việc thực hiện Nghị quyết phê duyệt chủ trương đầu tư các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020, các công trình trọng điểm quốc gia cùng với các vấn đề về kinh tế-xã hội.

- Không trình bày dự thảo nghị quyết trước khi biểu quyết thông qua (trừ nghị quyết chung của kỳ họp). Tiếp tục duy trì một số cải tiến về cách thức tiến hành kỳ họp như thông lệ. Thực hiện nghiêm túc quy định về thời gian trình bày báo cáo, tờ trình tại hội trường. Bảo đảm sự cân đối giữa ưu điểm và hạn chế được đề cập trong báo cáo tóm tắt trình bày tại hội trường.

- Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội nghiên cứu để có báo cáo chuyên đề hoặc thuyết trình về những vấn đề quan tâm; đồng thời, kết hợp thảo luận cùng với nội dung về kinh tế-xã hội.

- Có văn bản yêu cầu các cơ quan cân nhắc, lựa chọn những nội dung thật cần thiết để đóng dấu mật và thể hiện thành tài liệu riêng.

- Đối với nội dung về bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người lao động là công dân nước ngoài làm việc tại Việt Nam, đề nghị Ủy ban về các vấn đề Xã hội có văn bản chính thức trả lời Chính phủ.

- Trên cơ sở một số cải tiến đã áp dụng trong thời gian vừa qua, đề nghị Tổng Thư ký Quốc hội tiến hành tổng hợp, tiếp tục nghiên cứu để đề xuất sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật có liên quan. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của Quốc hội; khắc phục có hiệu quả các sự cố kỹ thuật, âm thanh tại hội trường.

Sau khi tiếp thu ý kiến tại phiên họp để chỉnh lý dự kiến chương trình kỳ họp, Tổng Thư ký Quốc hội gửi xin ý kiến thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội trước khi gửi xin ý kiến đại biểu Quốc hội; đồng thời, tiếp tục phối hợp đôn đốc chuẩn bị nội dung và các điều kiện bảo đảm để phục vụ tốt kỳ họp, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp thứ 28 (tháng 10/2018).

22. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua 05 Nghị quyết:

22.1. Nghị quyết thành lập Tòa án quân sự khu vực, Tòa án quân sự quân khu và tương đương; Biên chế, số lượng Thẩm phán của Tòa án quân sự các cấp.

22.2. Nghị quyết bổ sung số lượng Thẩm phán sơ cấp cho Tòa án nhân dân huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.

22.3. Nghị quyết thành lập phường Mỹ Đức thuộc thị xã Hà Tiên và thành phố Hà Tiên thuộc tỉnh Kiên Giang.

22.4. Nghị quyết về Biểu thuế bảo vệ môi trường

Bên cạnh việc thông qua Nghị quyết này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ lưu ý khi xây dựng dự toán ngân sách nhà nước năm 2019 và các năm tiếp theo cần ưu tiên nguồn thu từ thuế bảo vệ môi trường để chi cho hoạt động khắc phục, xử lý môi trường và chú ý công tác thông tin truyền thông trên các phương tiện thông tin đại chúng.

22.5. Nghị quyết bổ sung kinh phí mua hạt giống cây trồng dự trữ quốc gia đã xuất cấp năm 2017

Bên cạnh việc thông qua Nghị quyết này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ rà soát, sửa đổi Luật Dự trữ quốc gia theo hướng: Do Chính phủ có thẩm quyền quyết định sử dụng dự phòng ngân sách trung ương, nên phần sử dụng dự phòng để mua bù hàng dự trữ quốc gia đã xuất cấp là thuộc thẩm quyền của Chính phủ. Trường hợp Chính phủ sử dụng ngoài phần dự phòng thì mới cần xin ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Quốc hội. 

*   

*          *

Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khẩn trương triển khai thực hiện các kết luận, nghị quyết của phiên họp.

Cổng Thông tin điện tử Quốc hội