Luật GDNN tạo hành lang pháp lý, điều kiện để các cơ sở GDNN hoạt động
Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) nước ta có lịch sử phát triển khá lâu đời, gắn liền với sự phát triển của các làng nghề truyền thống, của sản xuất nông nghiệp và quá trình công nghiệp hóa. Cùng với sự phát triển của đất nước, trải qua nhiều thăng trầm, nhưng dạy nghề đã khẳng định được vai trò của mình trong việc đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật trực tiếp cho các ngành kinh tế. Sự phát triển của dạy nghề gắn liền với sự thay đổi, phát triển tư duy, nhận thức của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các cấp, các ngành và toàn xã hội.
Trong thời kỳ đổi mới, những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Quốc hội, Chính phủ, sự vào cuộc mạnh mẽ của các bộ, ngành, địa phương và nỗ lực của ngành, GDNN bước đầu đã đạt được những kết quả quan trọng. Nhận thức của xã hội, người dân, doanh nghiệp về GDNN đã có những chuyển biến tích cực; số lượng người tham gia vào GDNN ngày càng tăng; tỷ lệ người học sau tốt nghiệp có việc làm cao, thu nhập ổn định. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về GDNN từng bước được hoàn thiện; mạng lưới cơ sở GDNN phát triển rộng khắp, đa dạng về loại hình và trình độ đào tạo; các điều kiện bảo đảm chất lượng ngày càng được tăng cường; xuất hiện ngày càng nhiều mô hình đào tạo chất lượng cao, đào tạo gắn với nhu cầu của doanh nghiệp, góp phần quan trọng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Toàn cảnh hội thảo
Luật Giáo dục nghề nghiệp được Quốc hội thông qua vào ngày 27/11/2014, có hiệu lực từ ngày 01/07/2015 (thay thế luật dạy nghề năm 2006). Luật có VIII chương, 79 điều quy định về hệ thống GDNN; tổ chức, hoạt động của cơ sở GDNN; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân có tham gia hoạt động GDNN. Các qui định của luật tạo cho GDNN đạt mục tiêu nhằm đào tạo nhân lực trực tiếp cho sản xuất, kinh doanh và dịch vụ, có năng lực hành nghề tương ứng với trình độ đào tạo, có đạo đức, sức khỏe, có trách nhiệm nghề nghiệp; có khả năng sáng tạo, thích ứng với môi trường làm việc trong bối cảnh hội nhập quốc tế; bảo đảm nâng cao năng xuất lao động, chất lượng lao động, tạo điều kiện để người học sau khi hoàn thành khóa học có khả năng tìm việc làm, tự tạo việc làm hoặc học lên trình độ cao hơn.
Tính đến ngày 01/3/2019, đã có 63 văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn Luật GDNN trong đó có 05 nghị định, 05 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, hơn 45 thông tư và 03 thông tư liên tịch được ban hành.
Các văn bản hướng dẫn Luật GDNN và các luật có liên quan, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, thống nhất, tạo điều kiện để các cơ sở GDNN tổ chức, triển khai các hoạt động GDNN theo quy định của Luật. Các văn bản quy phạm pháp luật về GDNN được ban hành có căn cứ pháp lý, tuân thủ trình tự, thủ tục,cơ bản thực hiện theo tiến độ, đồng thời đã cắt giảm, đơn giản hóa điều kiện đầu tư kinh doanh, thủ tục hành chính trong lĩnh vực GDNN, hướng tới việc trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm và trách nhiệm giải trình cho người đứng đầu cơ sở GDNN, tạo cơ chế đánh giá độc lập, sự kiểm soát của nhà nước, giám sát của xã hội.
Bên cạnh đó, Quốc hội đã tăng cường giám sát; cơ quan quản lí nhà nước đã tích cực chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật, các chiến lược quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án, chương trình về GDNN đã được ban hành, bảo đảm việc tổ chức thực hiện theo quy định của pháp luật.
Quy định pháp luật về GDNN vẫn còn điểm hạn chế
Bên cạnh những mặt tích cực mà GDNN của nước ta đạt được, tại hội thảo, các đại biểu cũng chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục tháo gỡ về thể chế, pháp luật trong lĩnh vực này.
Thứ nhất, các đại biểu cho rằng, Luật Giáo dục nghề nghiệp có hiệu lực thi hành từ 01/7/2015, tuy nhiên hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Giáo dục nghề nghiệp chậm được ban hành (hầu hết chỉ được ban hành trong năm 2017 và 2018). Hiện nay, còn 02 nội dung cần phải hướng dẫn theo quy định Luật Giáo dục nghề nghiệp nhưng chưa có văn bản hướng dẫn.
Thứ hai là phân luồng hiệu quả chưa cao. Công tác tuyển sinh trong GDNN vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, đặc biệt đối với những ngành, nghề học nặng nhọc độc hại, ngành nghề đòi hỏi trình độ năng khiếu; nhiều cơ sở GDNN tuyển sinh không đủ chỉ tiêu; việc tổ chức đào tạo theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp có nhiều lúng túng, nhất là trong năm 2017; Còn có hiện tượng phân luồng như phân loại học sinh, sinh viên.
Thứ ba, việc gắn kết với doanh nghiệp đã có nhiều cải thiện, nhiều chương trình hợp tác đã được ký kết song còn nhiều doanh nghiệp vẫn chưa tích cực, chủ động tham gia vào hoạt động GDNN; chưa phối hợp chặt chẽ với cơ sở GDNN trong quá trình đào tạo, đánh giá và tuyển dụng lao động; có những doanh nghiệp chỉ tuyển dụng lao động phổ thông; điều này ảnh hưởng đến công tác tuyển sinh của các cơ sở GDNN
Thứ tư, tiến triển tự chủ chậm, hiện cả nước mới có 3 trường công lập thí điểm, trong khi đó vấn đề tự chủ được xem là một trong những khâu đột phá trong quá trình tiến hành đổi mới và sắp xếp lại mạng lưới các cơ sở GDNN của nước ta.
Đại biểu phát biểu tại hội thảo
Không chỉ vậy, các đại biểu cho rằng, hiệu quả và hiệu lực của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực GDNN chưa cao; năng lực của cơ quan quản lý nhà nước về GDNN ở địa phương còn hạn chế; đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước về GDNN thiếu về số lượng, chưa chuyên nghiệp và một bộ phận chưa đạt chuẩn; ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, đào tạo trong lĩnh vực GDNN chưa đáp ứng được yêu cầu; mạng lưới cơ sở GDNN còn bất cập về phân bố giữa các vùng miền, ngành nghề, trình độ đào tạo; quy mô đào tạo của nhiều cơ sở GDNN còn nhỏ; việc sáp nhập cơ sở GDNN ở một số địa phương còn mang tính hành chính, cơ học, chưa có nguyên tắc sáp nhập cụ thể, chưa có cơ chế bảo đảm hiệu quả hoạt động của các cơ sở GDNN sau sắp xếp; cơ cấu trình độ đào tạo trong GDNN vẫn còn chưa hợp lý, chủ yếu vẫn là đào tạo trình độ sơ cấp và đào tạo thường xuyên, ngắn hạn (chiếm 75%), trình độ trung cấp, cao đẳng chỉ chiếm khoảng 25% trên tổng số tuyển sinh; công tác quản lý và kiểm soát chất lượng GDNN còn hạn chế; tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia ban hành còn chậm; việc tổ chức đánh giá, cấp chứng chỉ kỹ năng nghề chưa triển khai được rộng rãi; việc huy động các nguồn lực đầu tư cho GDNN chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; ngân sách nhà nước đầu tư cho GDNN những năm gần đây tuy có tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tương xứng với mục tiêu nhiệm vụ đề ra; nhiều địa phương chưa ưu tiên nguồn lực đầu tư cho phát triển GDNN.
Lý giải về những hạn chế này, Hiệp hội giáo dục nghề nghiệp và nghề công tác xã hội Việt Nam cho rằng có nhiều nguyên nhân. Trong đó, nguyên nhân đáng lưu ý là do Luật chuyên ngành nhưng số điều quy định chung còn khá nhiều, nên cần quá nhiều văn bản dưới luật hướng dẫn, khó cho nhưng năm đầu triển khai. Năm 2017 là năm đầu tiên triển khai tuyển sinh và đào tạo theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp, nhiều văn bản hướng dẫn chưa được ban hành. Trong khi đó, nhiều cơ sở GDNN nguyên là Trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng chuyên nghiệp chưa quen với tổ chức, hoạt động theo quy định mới, theo định hướng thực hành; chưa có quy định cụ thể về trách nhiệm của doanh nghiệp chỉ được sử dụng, tuyển dụng lao động phải qua đào tạo nghề nghiệp ở tất cả các lĩnh vực lao động theo quy định của Luật Giáo dục nghề nghiệp; nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức đúng về trách nhiệm xã hội trong việc tham gia hoạt động GDNN.
Bên cạnh đó, nhận thức của cấp ủy Đảng, chính quyền và các cơ quan chức năng về GDNN ở một số địa phương chưa đầy đủ, thậm chí còn coi nhẹ; một bộ phận xã hội vẫn chưa nhận thức đúng về vai trò quan trọng của GDNN trong đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội; tâm lý coi trọng bằng cấp vẫn còn nặng nề; việc định hướng nghề nghiệp, phân luồng học sinh sau tốt nghiệp THCS, THPT không đạt mục tiêu đề ra...
Đề xuất các giải pháp hoàn thiện
Để tiếp tục đổi mới, phát triển GDNN theo hướng mở, linh hoạt; chuẩn hóa, hiện đại hóa, dân chủ hóa trong bối cảnh chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hội nhập quốc tế, các đại biểu cho rằng, chúng ta cần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về số lượng tuyển sinh, chất lượng đào tạo và hiệu quả của GDNN; phát triển hệ thống GDNN với nhiều phương thức và trình độ đào tạo nghề nghiệp, nhất là đào tạo chất lượng cao theo hướng ứng dụng, thực hành, bảo đảm đáp ứng nhu cầu nhân lực qua đào tạo cho thị trường lao động, góp phần nâng cao năng suất lao động, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Do vậy, việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về GDNN cần đặc biệt được chú trọng.
Cụ thể, tiếp tục nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về GDNN đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ, công khai, minh bạch và phù hợp với yêu cầu thực tiễn; xây dựng chương trình mục tiêu, đề án, dự án đổi mới GDNN, gắn với đào tạo và đào tạo lại đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Năm 2020, các đại biểu đề nghị nên tổ chức đánh giá 5 năm thi hành luật GDNN để xem xét sửa đổi, bổ sung, thay thế một số điều cho phù hợp.
Bên cạnh đó, cần sớm có chính sách, đề án quy hoạch mạng lưới cơ sở GDNN theo hướng mở, bảo đảm quy mô, cơ cấu, hợp lý về ngành, nghề, trình độ đào tạo (đa ngành, chuyên ngành), vùng miền, chuẩn hóa, hiện đại hóa, có phân tầng chất lượng. Sáp nhập hoặc giải thể các cơ sở GDNN yếu kém, hoạt động không hiệu quả, không đủ năng lực triển khai tự chủ; từng bước sáp nhập trường trung cấp công lập vào trường cao đẳng; sáp nhập trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp, trung tâm dạy nghề thành một cơ sở GDNN trên địa bàn cấp huyện và hợp tác chặt chẽ với các trường cao đẳng, trung cấp để tổ chức đào tạo. Tập trung nguồn lực đầu tư một số cơ sở GDNN chất lượng cao, ngành, nghề trọng điểm đã được quy hoạch theo các cấp độ (quốc tế, khu vực ASEAN và quốc gia) và các cơ sở GDNN chuyên ngành, các nhóm đối tượng đặc thù. Khuyến khích thành lập mới cơ sở GDNN tư thục, cơ sở GDNN của doanh nghiệp và có vốn đầu tư nước ngoài.
Đồng thời, cần có cơ chế, giải pháp hữu hiệu đẩy mạnh phân luồng, tạo ra sự cân đối tương đối hợp lý cung- cầu trong đào tạo các trình độ và nhu cầu sử dụng; tư vấn học nghề, việc làm hiệu quả hơn.
Đặc biệt, sớm ban hành nghị định tự chủ trong GDNN nhằm đẩy mạnh tự chủ của các cơ sở GDNN gắn với trách nhiệm giải trình, cơ chế đánh giá độc lập, sự kiểm soát của nhà nước, giám sát của xã hội. Thực hiện tự chủ toàn diện; chuyển đổi hoạt động của các cơ sở GDNN công lập đủ điều kiện sang cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm, hạch toán như doanh nghiệp; kiên quyết chuyển sang cơ chế tự bảo đảm hoàn toàn về tài chính, tổ chức nhân sự và thực hiện nhiệm vụ đối với các cơ sở GDNN công lập đào tạo những ngành nghề có khả năng xã hội hóa cao trên cơ sở Nhà nước thực hiện lộ trình bảo đảm kinh phí hoạt động có thời hạn. Đẩy mạnh việc thực hiện cơ chế tự chủ đi đôi với trách nhiệm giải trình, tăng cường sự kiểm tra, giám sát của nhà nước và xã hội. Đối với các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đang hoạt động có hiệu quả, có khả năng tự chủ, tự chịu trách nhiệm thì tiếp tục triển khai thực hiện đào tạo theo quy định hiện hành sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp thời kỳ 2021 - 2030.
Các đại biểu cho rằng, cần sớm hoàn thiện chính sách cho nhà giáo theo hướng tạo động lực, nâng cao năng lực về chuyên môn, sư phạm, đặc biệt kỹ năng, có chính sách trải nghiệm thực tế...; cán bộ quản lý GDNN ngày càng chuyên nghiệp; chính sách cho người học, cơ sở GDNN và chính sách cho doanh nghiệp khi tham gia hoạt động GDNN. Doanh nghiệp tham gia GDNN cần rõ: vai trò, nhiệm vụ và lợi ích, nên lợi ích của doanh nghiệp tham gia giáo dục cần tuyên một điều trong luật GDNN đẻ đồng bộ. Đổi mới cơ chế cấp phát ngân sách nhà nước sang cơ chế Nhà nước đặt hàng, giao nhiệm vụ đào tạo căn cứ vào số lượng, chất lượng đầu ra hoặc đấu thầu cung cấp dịch vụ đào tạo nghề nghiệp;
Ngoài ra cũng cần đổi mới công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chính sách, pháp luật về GDNN. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước về GDNN. Tăng cường năng lực đội ngũ cán bộ, công chức của ngành làm công tác quản lý nhà nước về GDNN theo hướng hiện đại. Xây dựng cơ chế để người học và người sử dụng lao động tham gia chủ động vào đánh giá chất lượng đào tạo. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế trong GDNN. Thúc đẩy xã hội hóa GDNN, xây dựng xã hội học tập; đẩy mạnh hình thức vừa làm, vừa học của người lao động trong các doanh nghiệp./.