Luật Lâm nghiệp có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2019

15/11/2017

Sáng 15/11, với 431/447 đại biểu tán thành, chiếm 87,78% tổng số đại biểu Quốc hội, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật Lâm nghiệp.

Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường Phan Xuân Dũng trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Luật Lâm nghiệp

Thay mặt Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trình bày Báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Luật Lâm nghiệp, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng cho biết, ngày 24/10/2017, Quốc hội đã thảo luận tại Hội trường về Dự án Luật Bảo vệ và Phát triển rừng (sửa đổi). Ý kiến các vị đại biểu Quốc hội về cơ bản đều tán thành với Báo cáo giải trình tiếp thu, chỉnh lý và Dự thảo Luật mà Ủy ban thường vụ Quốc hội trình Quốc hội. Bên cạnh đó, có thêm một số ý kiến góp ý hoàn thiện Dự thảo Luật. Sau Phiên thảo luận tại Hội trường, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo Thường trực Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường phối hợp với Ban soạn thảo - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Thường trực Ủy ban Pháp luật và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội để chỉnh lý Dự thảo Luật.

Về tên gọi của Luật, phần lớn các vị đại biểu Quốc hội đều nhất trí với tên gọi của Dự án Luật là Luật Lâm nghiệp như đề xuất của Chính phủ. Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho đổi tên Luật là Luật Lâm nghiệp.

Về thẩm quyền giao rừng, cho thuê rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng, thu hồi rừng (Điều 23), một số ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị bỏ cụm từ "ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi rừng" tại khoản 3 Điều 26 của Dự thảo Luật đã trình Quốc hội. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, ý kiến đại biểu Quốc hội là hợp lý. Tuy nhiên, việc thu hồi rừng phải gắn với thu hồi đất, trong khi Luật Đất đai (khoản 3 Điều 66) quy định việc thu hồi đất trong trường hợp có cả đối tượng thuộc thẩm quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và của Ủy ban nhân dân cấp huyện thì Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định thu hồi hoặc ủy quyền cho Ủy ban nhân dân cấp huyện quyết định thu hồi để giảm bớt thủ tục hành chính. Vì vậy, để thẩm quyền này đồng bộ với quy định của Luật Đất đai khi Nhà nước thu hồi rừng, đề nghị Quốc hội cho thể hiện quy định này như Dự thảo Luật.

Về quyền và nghĩa vụ của chủ rừng (Chương VIII), có ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị bổ sung quy định cộng đồng dân cư thôn, bản, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước hỗ trợ phát triển kinh tế rừng, hỗ trợ phục hồi rừng bằng cây bản địa, được khai thác gỗ thương mại theo quy ước, hương ước, được phát triển sản xuất nông lâm kết hợp, hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng, đảm bảo kinh phí bảo vệ rừng tự nhiên được Nhà nước giao. Tiếp thu các ý kiến trên, Dự thảo Luật đã bổ sung quy định làm rõ các nội dung này như tại khoản 2, 4, 5 và 8 Điều 73; khoản 4 Điều 74; điểm c, d, khoản 2 Điều 75, điểm c, khoản 2 Điều 76; mục 4 Chương VIII; còn việc đảm bảo kinh phí bảo vệ rừng thực hiện theo quy định về nhiệm vụ chi NSNN quy định tại Điều 93.

Các đại biểu bấm nút thông qua Luật Lâm nghiệp

Về quản lý nhà nước về lâm nghiệp (Chương XI), một số ý kiến đại biểu Quốc hội đề nghị không nên quy định trong Dự thảo Luật về cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành về lâm nghiệp; cần phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về lâm nghiệp và kiểm lâm; đề nghị làm rõ địa vị pháp lý của kiểm lâm vì họ thường xuyên phải đối mặt với nguy hiểm để bảo vệ rừng.

Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo các cơ quan hữu quan rà soát chỉnh sửa các quy định trong Dự thảo Luật theo hướng: phân định rõ chức năng quản lý nhà nước về lâm nghiệp và chức năng chấp pháp của kiểm lâm; không quy định cụ thể về hệ thống tổ chức quản lý nhà nước chuyên ngành về lâm nghiệp để đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính. Để thực hiện nghiêm túc quan điểm chỉ đạo của Đảng trong Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X và Chỉ thị 13-CT/TW của Ban bí thư  đối với công tác quản lý, BV&PRT là: “Kiện toàn, củng cố tổ chức, bộ máy quản lý nhà nước, làm rõ chức năng, nhiệm vụ của các ngành, các cấp từ Trung ương tới cơ sở về lâm nghiệp; xây dựng lực lượng kiểm lâm đủ mạnh để thực thi hiệu quả công tác quản lý, BV&PTR”, Dự thảo Luật chỉ quy định về nguyên tắc tổ chức hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về lâm nghiệp (Điều 100); quy định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước về lâm nghiệp của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ (Điều 101) và trách nhiệm quản lý nhà nước của Ủy ban nhân dân các cấp (Điều 102); chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, tổ chức kiểm kiểm lâm và những điều kiện cần thiết để bảo đảm hoạt động của lực lượng này (Mục 2, Chương XI). Đồng thời, giao Chính phủ quy định cụ thể về tổ chức, bộ máy cơ quan quản lý lâm nghiệp cho phù hợp với điều kiện thực tiễn, đồng bộ với hệ thống pháp luật.

Nhất trí cao với Báo cáo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật Lâm nghiệp với 447 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết, bằng 91,04% tổng số đại biểu Quốc hội. Kết quả biểu quyết: có 431 đại biểu tán thành, chiếm 87,78% tổng số đại biểu Quốc hội; 16 đại biểu không tán thành, chiếm 3,26%.

Gồm 12 chương, 108 Điều, tăng 11 Điều  so với Dự thảo Luật Chính phủ trình Quốc hội tại kỳ họp thứ ba, Luật Lâm nghiệp quy định về quy hoạch lâm nghiệp; quản lý rừng; bảo vệ rừng; sử dụng rừng; chế biến thương mại, lâm sản; quyền và nghĩa vụ cùa chủ rừng; định giá rừng, đầu tư, tài chính trong lâm nghiệp; khoa học và công nghệ, hợp tác quốc tế về lâm nghiệp; quản lý nhà nước về lâm nghiệp và kiểm lâm.

Luật Lâm nghiệp có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2019. Luật Bảo vệ và phát triển rừng số 29/2004/QH11 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành.

Vân Ngọc