Quốc hội xem xét Dự thảo Nghị quyết về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh

14/11/2017

Sáng 14/11, tại Hội trường Diên Hồng- Nhà Quốc hội, Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình dự thảo Nghị quyết về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh; nghe Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải trình bày Báo cáo thẩm tra dự thảo Nghị quyết về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh.

Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng trình bày Tờ trình dự thảo Nghị quyết về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. HCM    

Ảnh: Đình Nam

Theo Tờ trình của Chính phủ, Nghị quyết về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hồ Chí Minh gồm 9 Điều và có những nội dung cơ bản như: về phạm vi và đối tượng áp dụng (Điều 1, Điều 2): Quy định cho TP. Hồ Chí Minh được thí điểm áp dụng cơ chế, chính sách đặc thù về quản lý đất đai; quản lý đầu tư; quản lý tài chính - ngân sách; cơ chế ủy quyền giữa các cấp chính quyền và thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức thuộc Thành phố quản lý. Về quản lý đất đai (Điều 3): Thí điểm giao cho HĐND TP. Hồ Chí Minh quyết định: Chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa từ 10 ha trở lên nhưng phải đảm bảo diện tích đất trồng lúa theo quy định của Chính phủ trong mỗi kỳ kế hoạch sử dụng đất. Nội dung này theo quy định tại Điều 58 của Luật đất đai năm 2013, thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời quy định trình tự, thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa từ 10 ha trở lên được thực hiện như đối với trình tự, thủ tục chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa dưới 10 ha. Về quản lý đầu tư (Điều 4): Thí điểm giao cho HĐND TP. Hồ Chí Minh quyết định chủ trương đầu tư đối với các dự án nhóm A sử dụng ngân sách của Thành phố theo quy định của Luật đầu tư công, trừ dự án quy định tại điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật đầu tư công. Nội dung này theo quy định tại Điều 8 của Luật đầu tư công, thuộc thẩm quyền của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời quy định về trình tự, thủ tục quyết định thực hiện như đối với dự án nhóm B đã giao cho Thành phố thực hiện, nhưng bổ sung thêm điều kiện phải có báo cáo tiền khả thi.

Về quản lý tài chính – ngân sách nhà nước (Điều 5): Giao cho TP. Hồ Chí Minh được thực hiện thí điểm đối với Luật thuế tài sản; tăng thuế suất đối với các sắc thuế khác (trừ thu từ hoạt động xuất nhập khẩu); tăng mức phí, lệ phí; ban hành chính sách thu phí, lệ phí mới. Đồng thời quy định UBND thành phố phải lập đề án để trình HĐND thành phố xem xét báo cáo Chính phủ để trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định. Các khoản thu tăng thêm do điều chỉnh chính sách thu trên, ngân sách thành phố được hưởng 100% và không dùng để xác định tỷ lệ phần trăm (%) đối với các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách Thành phố. HĐND TP. Hồ Chí Minh, căn cứ vào tình hình thực tế của Thành phố, quyết định dự toán ngân sách thành phố, phân bổ ngân sách cấp mình bảo đảm phù hợp với các định hướng phát triển các lĩnh vực quan trọng của Chính phủ, Quốc hội. Sau khi bảo đảm đủ nguồn thực hiện cải cách tiền lương và các chính sách an sinh xã hội theo quy định của cấp có thẩm quyền quyết định cho cả thời kỳ ổn định ngân sách, HĐND TP. Hồ Chí Minh được quyết định sử dụng nguồn tiền lương còn dư để thực hiện tăng chi đầu tư, mua sắm…Thành phố được vay thông qua phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay từ các tổ chức tài chính trong nước, các tổ chức trong nước khác và từ nguồn Chính phủ vay ngoài nước về cho Thành phố vay lại với mức dư nợ vay không vượt quá 90% số thu ngân sách thành phố được hưởng theo phân cấp. Tổng mức vay và bội chi ngân sách của TP. Hồ Chí Minh hằng năm do Quốc hội quyết định theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.

Hằng năm, Thành phố được bổ sung có mục tiêu từ ngân sách trung ương tương ứng 70% số tăng thu ngân sách trung ương từ các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách thành phố so với dự toán Thủ tướng Chính phủ giao (phần còn lại sau khi thực hiện thưởng vượt thu theo quy định tại khoản 4 Điều 59 của Luật ngân sách nhà nước) và số tăng thu từ các khoản thu ngân sách trung ương hưởng 100% theo quy định tại điểm b, c, d, g, h, i, q khoản 1 Điều 35 Luật ngân sách nhà nước. Ngân sách thành phố được hưởng 50% khoản thu tiền sử dụng đất khi bán tài sản nhà nước gắn với tài sản trên đất theo quy định của Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước (sau khi đã khấu trừ kinh phí di dời, xây dựng cơ sở vật chất tại địa điểm mới) do các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc trung ương quản lý trên địa bàn Thành phố (trừ các cơ quan, đơn vị thuộc lĩnh vực quốc phòng, an ninh). Ngân sách thành phố được hưởng số thu từ cổ phần hóa của các doanh nghiệp nhà nước do UBND TP. Hồ Chí Minh quản lý và phần thu được từ thoái vốn nhà nước tại các tổ chức kinh tế do UBND thành phố làm đại diện chủ sở hữu.  TP. Hồ Chí Minh sử dụng nguồn thu này và ngân sách thành phố để đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, kể cả đầu tư cho các dự án chống ngập và 02 bệnh viện tuyến cuối của Thành phố; ngân sách trung ương sẽ không bổ sung cho Thành phố 18.800 tỷ đồng từ nguồn thu cổ phần hóa để thực hiện các dự án này như dự kiến trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020.

Đối với các dự án đầu tư trong kế hoạch đầu tư công trung hạn đã được phê duyệt thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách trung ương trên địa bàn Thành phố, cho phép Thành phố sử dụng ngân sách của mình, các nguồn lực tài chính hợp pháp khác của Thành phố, vay trong phạm vi quy định tại khoản 5 Điều này hoặc huy động theo phương thức đối tác công tư PPP để sớm hoàn thành dự án; ngân sách trung ương có trách nhiệm, trong kế hoạch đầu tư công trung hạn hiện hành hoặc kế hoạch đầu tư công trung hạn tiếp theo, hoàn trả cho Thành phố phần dự toán chi thuộc trách nhiệm của ngân sách trung ương đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Về cơ chế ủy quyền và thu nhập của cán bộ, công chức, viên chức thuộc TP. Hồ Chí Minh quản lý (Điều 6): Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh được ủy quyền cho Chủ tịch UBND quận, huyện và Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND TP. Hồ Chí Minh trong phạm vi quyền hạn của Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh. Đồng thời giao cho UBND thành phố quy định việc ủy quyền của chủ tịch UBND quận, huyện cho chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn. HĐND TP. Hồ Chí Minh quyết định chi trả mức thu nhập bình quân tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc thành phố quản lý và mức lương phù hợp với các chuyên gia, nhà khoa học, tài năng đặc biệt trong khả năng, phạm vi ngân sách của Thành phố. Việc thực hiện các quy định này phải gắn với việc sắp xếp bộ máy tổ chức, tinh giản biên chế theo chủ trương của Đảng, Nhà nước. UBND TP. Hồ Chí Minh được điều chỉnh tên gọi, chức năng, nhiệm vụ các phòng thuộc các cơ quan chuyên môn thuộc UBND Thành phố, để phù hợp với đặc điểm của Thành phố.

Ngoài ra, Nghị quyết còn quy định về áp dụng pháp luật (Điều 7), điều khoản chuyển tiếp (Điều 8) và điều khoản thi hành (Điều 9). Trong đó quy định thời gian thực hiện thí điểm là 05 năm, xác định rõ trách nhiệm của Chính phủ, Thành phố trong việc thực hiện Nghị quyết; quy định việc giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, HĐND các cấp của TP. Hồ Chí Minh.

Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội Nguyễn Đức Hải trình bày Báo cáo thẩm tra
dự thảo Nghị quyết về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh

Tán thành với sự cần thiết xây dựng và ban hành Nghị quyết về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển thành phố Hồ Chí Minh, tuy nhiên, qua nghiên cứu Tờ trình của Chính phủ và Dự thảo Nghị quyết, Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội có ý kiến về một số nội dung cụ thể như: Về quản lý đất đai (Điều 3), Ủy ban Tài chính, Ngân sách nhất trí với Tờ trình của Chính phủ, theo đó giao thẩm quyền cho HĐND Thành phố quyết định chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa từ 10 ha trở lên. Tuy nhiên, đề nghị cần quy định trong Nghị quyết này nguyên tắc việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất lúa phải theo quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất hàng năm được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

Về quản lý tài chính - ngân sách nhà nước (Điều 5): Về việc thí điểm xây dựng và thực hiện chính sách thuế tài sản (điểm a khoản 1) và thí điểm tăng mức thuế hoặc thuế suất so với quy định của các sắc thuế hiện hành (điểm b khoản 1), Ủy ban cơ bản nhất trí với Tờ trình của Chính phủ, tuy nhiên, để bảo đảm về thẩm quyền của Quốc hội trong việc quyết định các chính sách về thuế theo quy định của Hiến pháp năm 2013, Ủy ban đề nghị: Đối với việc thí điểm thuế tài sản: đây là sắc thuế mới, thuộc thẩm quyền của Quốc hội theo quy định của Hiến pháp và đã được định hướng trong kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016-2020, do vậy đề nghị trên cơ sở báo cáo của HĐND Thành phố, Bộ Tài chính báo cáo Chính phủ trình Ủy ban TVQH xem xét, trình Quốc hội quyết định áp dụng thuế tài sản thí điểm trước tiên thực hiện tại Thành phố. Trước mắt nghiên cứu tập trung thuế tài sản đối với nhà, đất.

Đối với thí điểm tăng mức thuế hoặc thuế suất cao hơn so với quy định của các sắc thuế hiện hành: Ủy ban cơ bản nhất trí với Tờ trình của Chính phủ, nhưng đề nghị Chính phủ cân nhắc cho phép điều chỉnh tăng thuế suất của tất cả sắc thuế (trừ thuế XNK) mà chỉ nên tăng thuế suất ở một số sắc thuế hoặc mở rộng cơ sở thuế đối với một số sản phẩm hàng hóa, dịch vụ xa xỉ, ảnh hưởng đến môi trường, sức khỏe của người dân và có tính đến mức thu nhập của người dân đô thị (thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế bảo vệ môi trường, thuế tài nguyên nước…), cần nghiên cứu thận trọng việc điều chỉnh tăng mức thuế ở một số sắc thuế có tác động lớn đến sản xuất, kinh doanh và môi trường đầu tư của Thành phố (như thuế GTGT, thuế TNDN, thuế TNCN…). Ngoài ra, một số ý kiến đề nghị cần quy định mức trần tăng thuế suất của một số sắc thuế để bảo đảm tính khả thi và sự kiểm soát của Nhà nước.

Về phí, lệ phí mới chưa có trong danh mục của Luật phí và lệ phí (điểm c khoản 1) và tăng mức hoặc tỷ lệ thu phí, lệ phí so với mức thu trong danh mục Luật phí và lệ phí quy định (điểm d khoản 1), Ủy ban cho rằng, để bảo đảm cơ chế chính sách vượt trội cho Thành phố, đề nghị quy định trong Nghị quyết này phân cấp theo hướng giao thẩm quyền cho HĐND Thành phố quyết định thí điểm đối với các khoản phí, lệ phí chưa có trong danh mục kèm theo Luật phí và lệ phí và quyết định điều chỉnh tăng mức hoặc tỷ lệ thu so với mức thu theo quy định hiện hành thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Bộ Tài chính. Về việc giao HĐND Thành phố quyết định dự toán ngân sách Thành phố, phân bổ ngân sách cấp mình bảo đảm phù hợp với các định hướng phát triển các lĩnh vực của Chính phủ, Quốc hội căn cứ dự toán NSNN hằng năm do Quốc hội quyết định, Thủ tướng Chính phủ giao (khoản 3), Ủy ban nhất trí với đề nghị của Chính phủ về việc cần tạo sự chủ động hơn cho chính quyền Thành phố trong việc xem xét, quyết định dự toán ngân sách hàng năm nhưng vẫn phù hợp với định hướng phát triển các lĩnh vực quan trọng của Chính phủ, Quốc hội. Tuy nhiên, đề nghị Thành phố cần ưu tiên cho các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ. Có ý kiến đề nghị cho phép Thành phố quyết định dự toán ngân sách hàng năm nhưng trong trung hạn 5 năm phải đảm bảo tỷ lệ chi ngân sách cho các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ theo quy định của Đảng và Nhà nước.

Về việc cho phép Thành phố được vay thông qua phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay từ các tổ chức tài chính trong nước, các tổ chức trong nước khác và từ nguồn Chính phủ vay ngoài nước về cho Thành phố vay lại với mức dư nợ vay không vượt quá 90% số thu ngân sách Thành phố được hưởng theo phân cấp (khoản 5), Ủy ban TCNS cơ bản nhất trí với Tờ trình của Chính phủ, tuy nhiên đề nghị Chính phủ cần cân nhắc đến mặt bằng bội chi chung của NSĐP trong kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia (bội chi NSĐP không quá 0,2% GDP) để không làm ảnh hưởng lớn đến khả năng vay vốn của các địa phương khác, trong đó thủ đô Hà Nội (mức dư nợ là 70%) và ba đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt sẽ được thành lập (mức dư nợ dự kiến 70%). Về việc ngân sách Thành phố được hưởng 50% khoản thu tiền sử dụng đất khi bán tài sản nhà nước gắn với tài sản trên đất theo quy định của Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước... (Khoản 7), Ủy ban cho rằng, khoản thu tiền sử dụng đất khi bán tài sản nhà nước gắn liền với đất sau khi trừ đi chi phí di dời, xây dựng trụ sở của các cơ quan Trung ương đóng trên địa bàn Thành phố thì Thành phố được hưởng 50% là phù hợp, do đó nhất trí với Tờ trình của Chính phủ. Tuy nhiên, đề nghị Chính phủ cần đánh giá chung về mặt số lượng và giá trị (nhà, đất), về tài sản của các đơn vị sự nghiệp công lập do các cơ quan, tổ chức, đơn vị thuộc trung ương quản lý trên địa bàn Thành phố đang quản lý, sử dụng và tình hình sắp xếp đối mới các đơn vị sự nghiệp công lập trên địa bàn Thành phố.

Về việc cho phép ngân sách Thành phố được hưởng số thu từ cổ phần hóa của các doanh nghiệp nhà nước do Ủy ban nhân dân Thành phố quản lý và phần thu được từ thoái vốn nhà nước tại các tổ chức kinh tế do Ủy ban nhân dân Thành phố làm đại diện chủ sở hữu: Ủy ban nhất trí cho phép Thành phố được hưởng số thu từ cổ phần hóa, thoái vốn như Tờ trình của Chính phủ. Riêng về số tiền 18.800 tỷ đồng đầu tư cho dự án chống ngập và 02 dự án bệnh tuyến cuối thuộc nguồn vốn do NSTW đảm bảo: Đa số ý kiến cho rằng, số thu từ cổ phần hóa phụ thuộc vào tình hình của thị trường, khó xác định trong tương lai, song các dự án này là dự án cấp bách, cần thiết đã được Quốc hội quyết định bố trí vốn trong kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2016-2020. Do đó, đề nghị NSTW bố trí đủ 18.800 tỷ đồng cho Thành phố để thực hiện các dự án này theo kế hoạch đầu tư công trung hạn đã được Quốc hội quyết định. Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị trong điều kiện áp lực cân đối NSTW khó khăn, dự báo có thể tiếp tục giảm, nên nhất trí với đề nghị của Chính phủ không bổ sung từ NSTW cho Thành phố 18.800 tỷ đồng để thực hiện các dự án này như dự kiến trong kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020.

Về việc cho phép Thành phố huy động theo phương thức PPP hoặc vay để hoàn thành các dự án do Trung ương tài trợ một phần hoặc toàn bộ song chưa bố trí được vốn, Trung ương sẽ hoàn trả sau (khoản 9), Ủy ban nhất trí với Tờ trình của Chính phủ nhằm hoàn thành dự án đúng tiến độ, phát huy tối đa hiệu quả của các dự án trong trường hợp nguồn lực của NSTW đã được bố trí trong trung và dài hạn chưa đảm bảo để thực hiện và được coi như một khoản tạm ứng, được NSTW hoàn trả khi có nguồn. Song đề nghị cần quy định rõ hơn về phạm vi dự án, chỉ tập trung một số dự án hạ tầng kinh tế thiết yếu, đặc biệt quan trọng và thời hạn NSTW phải hoàn trả, khoản lãi vay (nếu có) do ngân sách Thành phố hay NSTW phải chi trả. Đồng thời, làm rõ hơn căn cứ pháp lý trong việc sử dụng NSĐP để tạm ứng thực hiện nhiệm vụ của NSTW và thẩm quyền ký kết hợp tác công - tư của Thành phố đối với dự án thuộc thẩm quyền của Trung ương.

Về việc cho phép HĐND Thành phố quyết định mức thu nhập bình quân tăng thêm cho cán bộ, công chức, viên chức thuộc Thành phố quản lý và mức lương phù hợp với các chuyên gia, nhà khoa học, tài năng đặc biệt trong khả năng, phạm vi ngân sách của Thành phố (khoản 3 Điều 6): Ủy ban cơ bản nhất trí với Tờ trình của Chính phủ, song để thống nhất và tránh tạo sự bất bình đẳng trong chính sách trả lương, đề nghị đối với công chức, viên chức trong cơ quan quản lý nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập chỉ bổ sung mức thu nhập tăng thêm (khoản tăng thêm so với mức lương cơ bản) theo vị trí việc làm và hiệu quả công việc và quy định nguyên tắc, tiêu chí về mức thu nhập tăng thêm, còn mức lương cơ bản giữ nguyên như chính sách chung của cả nước. Như vậy, vẫn đảm bảo được thu nhập của cán bộ có năng lực và vẫn đảm bảo được sự công bằng trong chính sách lương áp dụng trên cả nước. Đề nghị Thành phố chủ động tổ chức bộ máy, sắp xếp biên chế phù hợp với đặc điểm của Thành phố và tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 về đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Về điều khoản thi hành (Điều 9): Để bảo đảm khi Nghị quyết này hết hiệu lực sau 5 năm thực hiện nhưng chưa có Nghị quyết hoặc luật mới để điều chỉnh các nội dung tại Nghị quyết này, Ủy ban TCNS đề nghị: (i) bỏ câu “Trước khi hết thời gian thực hiện thí điểm, Chính phủ báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định” tại khoản 1 Điều 9; đồng thời bổ sung một điểm mới vào khoản 2 với nội dung “Chính phủ báo cáo Quốc hội sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết này tại kỳ họp cuối năm 2020, báo cáo tổng kết thực hiện Nghị quyết này tại kỳ họp cuối năm 2022 và đề xuất hoàn thiện hệ thống pháp luật về các cơ chế, chính sách đã thực hiện thí điểm”. (ii) Điều chỉnh lại thời hạn hiệu lực của Nghị quyết từ ngày 15/01/2018 thay vì ngày 01/01/2018 để đảm bảo hiệu lực của văn bản pháp luật sau 45 ngày kể từ ngày thông qua theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.

+ Sáng cùng ngày, sau khi nghe Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, Ngân sách, Quốc hội đã tiến hành thảo luận ở Tổ về Dự thảo Nghị quyết về thí điểm cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí  Minh.

Quang Minh