Một số vấn đề nhằm ổn định và phát triển thị trường tín dụng ở nước ta

15/03/2007

I. Thực trạng và một số vấn đề đặt ra đối với thị trường tín dụng

Trong quá trình đổi mới và phát triển hoạt động ngân hàng, cùng với việc thị trường hoá các quan hệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng, nước ta cũng đã từng bước hình thành và phát triển thị trường tiền tệ và thị trường tín dụng. Thị trường tài chính, thị trường tiền tệ nói chung và thị trường tín dụng nói riêng là những tiền đề hết sức quan trọng cho việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nền kinh tế. Trong cơ cấu thị trường tài chính, thị trường tín dụng giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Thị trường tín dụng có ý nghĩa quyết định đối với việc huy động và phân bổ các nguồn vốn nhàn rỗi một cách tiết kiệm và hiệu quả. Thị trường tín dụng phát triển và lành mạnh là một nhân tố cần thiết đảm bảo sự an toàn của các định chế tài chính, các tổ chức tín dụng (TCTD) cũng như sự ổn định và phát triển của nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển, càng cần có một thị trường thị trường tín dụng hoàn chỉnh, hiện đại và an toàn.

Nước ta hiện nay, nhìn chung thị trường tài chính vẫn còn phát triển ở trình độ thấp. Thị trường tiền tệ còn hạn chế nhiều khả năng sử dụng có hiệu lực các công cụ tiền tệ và chưa tạo được những tiền đề cần thiết cho sự phát triển năng động, hiệu quả của toàn bộ thị trưởng tài chính. Thị trường vốn chưa phải là kênh phân bổ vốn đa dạng và có hiệu quả của nền kinh tế, trong đó thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu (nhất là trái phiếu công ty) còn quá nhỏ bé, chưa đủ khối lượng hàng hoá cần thiết để tạo ra một thị trường vốn , thị trường chứng khoán sôi động, hấp dẫn. Vốn đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế vẫn phải dựa quá mức vào nguồn vốn tín dụng ngân hàng cung ứng. Hệ thống các TCTD, nhất là các TCTD nhà nước vẫn đang là những chủ lực chính cung ứng vốn. Các doanh nghiệp, hộ gia đình và cá thể sản xuất kinh doanh đang tìm mọi cơ hội để tiếp cận với các nguồn vốn tín dụng ngân hàng.

Có thể tổng quan đánh giá rằng, mặc dù được ra đời từ lâu, nhưng kế từ khi chuyển đổi cơ chế vận hành của nền kinh tế nói chung và đổi hoạt động của hệ thống tài chính ngân hàng nói riêng, thị trường tín dụng mới có điều kiện phát triển toàn diện, nhanh chóng. Nếu so sánh với thị trường tiền tệ và các thị trường vốn khác, thời gian qua thị trường tín dụng được xem như phát triển mạnh mẽ và sôi động hơn. Các cấu thành cơ bản của thị trường tương đối hoàn thiện. Thành phần tham gia thị trường ngày một đa dạng. Nhiều loại hình tổ chức tín đụng với các hình thức sở hữu nhà nước, cổ phần, hợp tác xã được thành lập với quy mô và hệ thống tổ chức mạng lưới ngày càng rộng lớn. Thị trường đã giải quyết một lượng vốn tín dụng ngân hàng khá lớn, có vai trò chủ yếu hiện nay cung ứng vốn cho nền kinh tế (năm 2002 số dư tín dụng ngân hàng đạt 52% GDP, trong khi trái phiếu chính phủ và công ty chỉ đạt 2% GDP, giá trị cổ phiếu được giao dịch trên thị trường chỉ đạt 0,45% GDP). Vốn tín dụng trung, dài hạn cũng tăng nhanh (chiếm 38 - 40% tổng dư nợ tín dụng năm 2002). Các quan hệ tín dụng, kể cả huy động vốn và cho vay trên thị trường tín dụng chính thức và thị trường phi chính thức đều được mở rộng, tạo điều kiện thức đẩy cầu và cung tín dụng tăng lên. Công cụ tín dụng tham gia thị trường ngày càng đa dạng với nhiều hình thức tín dụng mới trong cả lĩnh vực đầu tư: sản xuất kinh doanh cũng như lĩnh vực tiêu dùng. Các quan hệ tín dụng được hình thành và chịu sự chi phối : bởi các quy luật thị trường. Khối lượng hàng hoá và giá cả tín dụng bước đầu được điều tiết bởi các quy luật cung cầu thị trường, quy luật cạnh tranh và quy luật giá cả.

Tuy nhiên, chính sự phát triển nhanh chóng của thị trường tín dụng trong điều kiện khả năng kiểm soát thị trường của Chính phủ còn hạn chế, cộng với các khiếm khuyết nội sinh vốn có của thị trường và tồn đọng của cơ chế kinh tế cũ, đã làm cho thị trường tín dụng đang bộc lộ nhiều vấn đề bất cập, thiếu ổn định và phát triển chưa thực sự lành mạnh. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển lớn của nền kinh tế cùng với sự yếu kém và phát triển chậm chạp của các thị trường vốn, đang tạo ra những áp lực và thúc đẩy tín dụng ngân hàng tăng trưởng ở mức độ khá nóng, đáng lo ngại. Hơn nữa, trong bối cảnh tăng trưởng và mở rộng hội nhập quốc tế, mà trước hết là thực hiện các cam kết của Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thị trường tín dụng trong nước cũng sẽ phải đối mặt với không ít những thách thức tác động từ nhiều phía, kể cả các yếu tố nội tại khó khăn của nền kinh tế, cũng như sự cạnh tranh khốc liệt mang tính toàn cầu hoá của thị trường tài chính quốc tế đang đặt ra.

1- Vấn đề đáng quan tâm thất hiện nay của thị trường tín dụng được xem là sự tăng trưởng nóng của tín dụng ngân hàng trước áp lực vốn của nền kinh tế. Tín dụng ngân hàng là hình thức huy động vốn chủ yếu của các doanh nghiệp nước ta. Các TCTD, đặc biệt là các TCTD nhà nước hoạt động chủ yếu vẫn là huy động và cho vay với các hình thức tín dụng truyền thống, chiếm 75 - 80% thị phần cũng như tài sản của toàn hệ thống ngân hàng. Khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn hạn chế, mà nguyên nhân có từ 2 phía: các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thiếu các điều kiện vay vốn, các TCTD lo sợ vấn đề an toàn vốn vay. Do đó, việc phân bổ tín dụng vẫn được xem còn nhiều ưu tiên hơn cho các doanh nghiệp nhà nước, nhất là tập trung nhiều vốn cho một số tổng công ty 90, 91. Cơ cấu nguồn vốn cũng như cơ cấu đầu tư chưa phù hợp và đáp ứng yêu cầu đầu tư trung dài hạn cho các công trình hạ tầng cơ sở có tính chất nền tảng cho CNH, HĐH, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn.

2- Đối với hệ thống các TCTD, năng lực giám sát cho vay và quản trị rủi ro chưa đáp ứng các chuẩn mực quốc tế, áp lực cho vay theo chỉ định đã giảm song vẫn còn. Quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng diễn ra chậm và còn gặp nhiều khó khăn, nợ quá hạn có nguy cơ tiếp tục phát sinh do tín dụng được mở rộng khá nhanh, một số TCTD có xu hướng nới lỏng điều kiện vay vốn, hạ thấp lãi suất để giành khách hàng, cho vay theo chỉ định đối với nhiều công trình lớn, hiệu quả kinh tế không được đánh giá đầy đủ và thẩm định thiếu chặt chẽ. Cùng với những nguyên nhân khách quan và chủ quan khác đang làm cho chất lượng tín dụng của nhiều TCTD không cao, tiềm ẩn và chứa đựng nhiều rủi ro đối với cả tín dụng khu vực kinh tế nhà nước cũng như khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.

3- Sự mất cân đối về cơ cấu thời hạn vốn tín dụng, cũng như việc sử dụng quá mức nguồn vốn ngắn hạn cho vay dài hạn của một số TCTD cần được xem xét lại một cách cẩn trọng, tránh trở thành những tác nhân có thể gây ra những bất ổn trên thị trường tín dụng. Mặc dù đã tăng cường các biện pháp huy động, nhưng khả năng huy động vốn trung, dài hạn của các TCTD vẫn còn thấp so với nhu cầu vốn vốn đầu tư dài hạn của nền kinh tế. Hơn nữa vốn huy động chủ yếu vẫn là hình thức tiết kiệm truyền thống, chiếm khoảng 80% tổng huy động tiền gửi từ dân cư. Sự mất cân đối về kỳ hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, trong khi vốn huy động ngắn hạn chiếm đến 70% tổng nguồn vốn, thì dư nợ cho vay trung dài hạn lại chiếm đến 45% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Do đó, trước áp lực của nền kinh tế, việc sử dụng vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn được coi là một giải pháp tình thế của NHNN hiện nay (cho phép các TCTD thực hiện với một tỷ lệ tối đa 30%). Tuy nhiên, nếu các TCTD không đảm bảo duy trì ổn định việc huy động vốn theo kế hoạch, cũng như khả năng thu nợ không phù hợp với yêu cầu chi trả các khoản tiền gửi do chênh lệch về thời hạn, có thể dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán là điều dễ xảy ra đối với bất cứ TCTD nào có quy mô nhỏ, hệ số an toàn vốn thấp và sử dụng nhiều vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn.

4. Thị trường tín dụng ưu đãi tồn tại song song với thị trường tín dụng thương mại, nhưng ranh giới giữa hai thị trường này chưa được phân định rõ ràng. Việc thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển trước đây và Ngân hàng chính sách xã hội hiện nay là nhằm tách bạch hoạt động cho vay chính sách với hoạt động cho vay thương mại. Tuy nhiên, hoạt động của các tổ chức này có nhiều tác động đến việc hình thành mức lãi suất khách quan theo cung cầu thị trường, ảnh hưởng đến sự lành mạnh và tự do hoá của thị trường tín dụng cũng như việc kiểm soát hữu hiệu lượng tiền cung ứng của NHNN đối với nền kinh tế thông qua con đường tín dụng.

5- Sự gia tăng nhanh chóng các loại hình TCTD là điều cần thiết để thị trường tín dụng phát triển. Tuy nhiên, khi càng có nhiều TCTD và các định chế tài chính thì sự canh tranh trên thị trường tín dụng càng trở nên gay gắt. Các TCTD đang có xu hướng mở rộng địa bàn hoạt động bằng việc thành lập và phát triển thêm nhiều chi nhánh, thậm chí trên cùng một địa bàn nhỏ (trong cùng một đơn vị hành chính loại nhỏ cấp huyện, thị xã nhưng cũng có đến 2 - 3 chi nhánh của cùng một ngân hàng được thành lập có tính độc lập trong kinh doanh với nhau).

Điều này không chỉ tạo ra sự cạnh tranh giữa TCTD này với TCTD khác, mà còn là sự cạnh tranh gay gắt không đáng có của các chi nhánh trong cùng một TCTD. Hậu quả của việc mở rộng quá mức hệ thống tổ chức mạng lưới chi nhánh do thiếu sự tính toán và phân chia hợp lý địa bàn hoạt động, đang là một cảnh báo cho sự tranh giành khách hàng, cạnh tranh thiếu bình đẳng, mất đi tính hợp tác và cộng đồng tài trợ, điều hết sức cần thiết của hoạt động tín dụng ngân hàng trong cơ chế thị trường.

6. Về cơ cấu các thành phần tham gia thị trường tín dụng, trên thực tế nhiều tổ chức chính trị - xã hội như Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh, Uỷ ban dân tộc miền núi, một số Tổ chức phi Chính phủ nước ngoài, Dự án tín dụng Việt - Bỉ, Dự án hoạt động tiết kiệm tín dụng của UNLCEF... tham gia hoạt động tín dụng, nhưng chưa có sự quản lý của Nhà nước theo Luật các TCTD. Bên cạnh đó, các tổ chức kinh tế của Nhà nước như Kho bạc Nhà nước, Quỹ hỗ trợ phát triển và Quỹ bảo lãnh tín dụng cũng có những hoạt động nghiệp vụ tín dụng, nhưng tổ chức và hoạt động cũng không bị điều chỉnh bởi Luật các TCTD. Vì vậy, hoạt động tín dụng của các tổ chức trên đã làm cho thị trường tín dụng đa dạng nhưng phức tạp, thiếu sự quản lý và cạnh tranh bình đẳng trong quan hệ tín dụng trên cùng một địa bàn, cùng một đối tượng vay vốn…

7. Mặc dù hiện nay thị trường tín dụng khá sôi động, nhưng nhìn chung chưa quán xuyến được toàn bộ nhu cầu vốn thông qua kênh tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế. Khả năng và tính linh hoạt của thị trường tín dụng còn nhiều hạn chế, nhiều nhu cầu vay vốn chưa được đáp ứng, nhất là vốn trung, dài hạn và các nhu cầu vốn nhỏ, lẻ và thời vụ trong nông nghiệp, nông thôn.

Theo ước tính của nhiều chuyên gia kinh tế, các nguồn vốn tín dụng ngân hàng mới chỉ đáp ứng khoảng 30-35% nhu cầu vốn tín dụng trong những khu vực nông nghiệp, nông thôn. Vì vậy, thị trường tín dụng ngầm vẫn tồn tại như một tất yếu với tình trạng cho vay nặng lãi dưới nhiều hình thức: hụi họ, cho vay nóng, cho vay cầm cố... trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nhất là kinh tế tư nhân. Các hình thức tín dụng ngoài khuôn khổ pháp luật này đã phá hoại rất nghiêm trọng lực lượng sản xuất xã hội, đặc biệt đối với các hộ dân cư nghèo đói ở cả thành thị và nông thôn.

8. Lãi suất tín dụng còn có những biến động và chưa thực sự là giá cả của tín dụng được xác định bởi cung cầu vốn trên thị trường. Nguyên nhân, phần do sự điều tiết thiếu khách quan của thị trường do bị tác động bởi các yếu tố chủ quan của các cơ chế và chính sách, phần do áp lực vốn của nền kinh tế đối với các TCTD, nhất là các TCTD nhà nước trong thời gian gần đây. Phần nữa, các công cụ điều tiết thị trường tiền tệ của Ngân hàng Trung ương chưa thực sự phát huy mạnh vai trò và tác dụng vốn có do chưa có một môi trường kinh tế theo cơ chế thị trường đúng nghĩa. Mặt khác, trên thị trường còn nhiều mức lãi suất áp đặt khác nhau do còn nhiều loại tín dụng ưu đãi, tín dụng chính sách của Nhà nước. Các mức lãi suất ưu đãi thái quá trên cùng một địa bàn, thậm chí cùng một đối tượng vay (chỉ khác nguồn vốn cho vay) đã tạo nên sự không thống nhất, bất bình đẳng trong các quan hệ tín dụng, làm cho thị trường tín dụng không phản ánh khách quan cung cầu vốn, Nhiều TCTD lạm dụng, lại vào lãi suất ưu đãi tràn lan, phá vỡ tính chủ động linh hoạt với các khoản tín dụng kinh doanh theo nguyên tắc thị trường.

9. Trong thời gian dài trước đây hình thức tín dụng thương mại hầu như không được sử dụng vì không có luật bảo đảm, làm cho nhà nước bị chiếm dụng hàng chục ngàn tỷ đồng vì nợ nần dây dưa giữa các doanh nghiệp. Gần đây, từ đầu năm 1999 mặc dù có Pháp lệnh hối phiếu và thương phiếu ra đời, song hình thức tín dụng thương mại này cũng chưa phát triển được bao nhiêu, vì tình trạng nợ nần đây dưa cũ tồn đọng khá lớn chưa được xử lý kiên quyết. Cộng với nhiều doanh nghiệp khó khăn, thua lỗ, mất uy tín trong kinh doanh hoặc phá sản, giải thể, làm cho không thể mở rộng hình thức mua bán chịu. Vì thế, hình thức tín dụng thương mại cũng không góp phần tạo nên sự sinh động và giảm áp lực cho các hoạt động tín dụng truyền thống trên thị trường tín dụng ngắn hạn hiện nay.

II. Một số biện pháp củng cố và phát triển thị trường tín dụng

Giải pháp củng cố và phát triển thị trường tín dụng là một bộ phận trong hệ thống giải pháp chiến lược phát triển và hoàn thiện thị trường tiền tệ và thị trường vốn ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, nếu đặt ra yêu cầu riêng để củng cố, ổn định và phát triển lành mạnh thị trường tín dụng, thì cần phải có những biện pháp chủ yếu sau đây:

1 . Tiếp tục mở và phát triển thị trường tín dụng trên cơ sở khuyến khích các thành phần tham gia và đa dạng hóa các công cụ tín dụng, phù hợp với cơ chế thị trường và tiến trình luật hóa các quan hệ tín dụng.

Cần tạo điều kiện từng bước cho các TCTD, kể cả các TCTD trong và ngoài nước tham gia vào thị trường, trên cơ sở thuận lợi hoá các hoạt động tín dụng, giảm thiểu quy định hạn chế hoạt động dịch vụ, nhất là các dịch vụ tín dụng nội và ngoại tệ. Tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng các hoạt động đầu tư, bảo lãnh vay vốn và bảo lãnh thanh toán, phát hành trái phiếu, môi giới tiền tệ, các hoạt động cho thuê tài chính và quản lý tài sản. Tiếp tục đổi mới phương thức và thủ tục tín dụng theo hướng tạo thuận lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Đa dạng hoá các phương thức tài trợ tín dụng kể cả lĩnh vực sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng, như cho thuê tài chính, mua trả góp, góp vốn đầu tư, đồng tài trợ, các hình thức tín dụng thế chấp, tín chấp... Đồng thời cần tích cực giới thiệu sản phẩm, maketing thu hút khách hàng, tạo tính hấp dẫn của các dịch vụ và sản phẩm tín dụng kể cả việc huy động và cho vay.

Song, vấn đề đặt ra là: đi cùng với việc mở rộng các thành phần và công cụ tín dụng tham gia thị trường là phải tiến hành đồng thời việc hoàn thiện các cơ chế, chính sách và các nguyên tắc mang tính luật hoá các quan hệ tín dụng giữa các chủ thể tham gia, cũng như điều chỉnh các hoạt động tín dụng trong một khuôn khổ pháp lý rõ ràng, môi trường thông tin công khai, minh bạch. Có như vậy việc phát triển thị trường tín dụng mới đảm bảo sự ổn định và lành mạnh, ngăn chặn tính độc quyền, hạn chế tính hiệu ứng lan truyền đổ vỡ tín dụng trong nền kinh tế.

2. Tăng cường năng lực tài chính, nâng cho hiệu quả quản lý điều hành và phòng chống rủi ro cho các TCTD

Tiếp tục thực hiện các giải pháp tăng vốn điều lệ cho các ngân hàng thương mại (NHTM), như cấp bổ sung hoặc phát hành trái phiếu cổ phiếu. Cần xem việc tăng vốn điều lệ cho các NHTM bao gồm cả NHTM nhà nước và cổ phần như là một mục tiêu trong phát triển thị trường tiền tệ và ổn định thị trường tín dụng của nước ta. Đối với NHTM nhà nước hiện nay Tỷ lệ an toàn vốn= Vốn tự có/tổng tài sản có rủi ro mới bằng một nửa tỷ lệ an toàn vốn theo thông lệ quốc tế là 8%. Để tăng vốn tự có cần nhiều giải pháp, nhưng mạnh dạn phát hành cổ phiếu dưới dạng cổ phần không tham gia quản lý để tăng vốn điều lệ có khá nhiều tính khả thi. Đối với NHTM cổ phần cần có chính sách thúc đẩy, kể cả bắt buộc phải sát nhập để tăng quy mô và chuyên môn hoá hoạt động, tăng tính chuyên nghiệp nhằm đáp ứng yêu cầu cạnh tranh hội nhập. Mạnh dạn cho phép các ngân hàng nước ngoài, người nước ngoài mua lại ngân hàng tư nhân, cổ phần và tham gia vào quá trình cổ phần hoá một số NHTM quốc doanh. Nhanh chóng thúc đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại nợ của các NHTM, giải quyết những khoản nợ tồn đọng, ngăn chặn nợ xấu phát sinh. Cần thiết thành lập cơ quan lý nợ độc lập (cả nợ Chính phủ và DNNN) nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nợ và thúc đẩy việc xử lý các khoản nợ xấu, giải phóng vốn tồn đọng. Tăng cường quản lý các khoản trích lập dự phòng rủi ro của các TCTD nhằm tạo điều kiện hình thành các quỹ dự phòng cho hoạt động tín dụng một cách tập trung và kịp thời.

Mở rộng sự tham gia của cơ quan kiểm toán độc lập, giám sát của khách hàng đối với hoạt động của các TCTD. Thiết lập và hoàn thiện các quy chuẩn theo thông lệ quốc tế về chỉ số an toàn vốn, thực hiện chuẩn mực kế toán quốc tế ở tất cả các ngân hàng và các định chế tài chính. Giảm thiểu các quy định có tính can thiệp vào quy trình nghiệp vụ, vào thẩm quyền và trách nhiệm đối với các quyết định kinh doanh, quyền tự chủ về nhân sự, tài chính, tiền lương của các TCTD. Thực hiện các biện pháp hỗ trợ an toàn tín dụng, như tăng cường chất lượng dịch vụ của Trung tâm thông tin tín dụng, thực hiện đánh giá tín nhiệm đối với các doanh nghiệp, xây dựng hệ thống cảnh báo sớm.

Tăng cường công tác quản trị trong các TCTD, trong đó chú trọng đổi mới cơ chế quản lý và điều hành, kiểm tra và thẩm quyền ban hành các quyết định cho vay. Trong nền kinh tế thị trường, sự năng động của các tổ chức kinh tế sẽ tạo nên muôn hình muôn vẻ các trạng thái kinh tế và biến động hằng giờ. Quá trình vận động của một món vay là khoảng thời gian được bắt đầu từ khi người vay có nguyện vọng xin vay cho đến khi hoàn tất trả nợ cả gốc và lãi. Quá trình đó đòi hỏi một cơ chế quản lý và giám sát chặt chẽ vốn vay, kịp thời thu hồi vốn khi phát hiện những biểu hiện không lành mạnh trong quá trình sử dụng vốn vay. Quản lý chặt chẽ và ngăn chặn kịp thời những biểu hiện tiêu cực của cán bộ tín dụng từ phía các TCTD. Chủ động tăng cường nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của kiểm soát nội bộ của các TCTD, phải xem đây là điểm xuất phát để bảo đảm an toàn, hiệu quả trong hoạt động. Do đó cần thành lập bộ phận kiểm soát và và thẩm định lại trước khi quyết định cho vay, nhất là các dự án vay vốn lớn.

3. Đổi mới hệ thống giám sát theo hướng tăng cường công tác quản lý, kiểm tra, kiểm soát của NHNN và thiết lập các chuẩn mực an toàn đối với thị trường tín dụng

Cho đến nay, đặc trưng cơ bản của hệ thống giám sát hoạt động tín dụng của NHNN vẫn chủ yếu là dựa trên sự tuân thủ các luật lệ đã được đặt ra, tức là việc xem xét các TCTD chấp hành đúng pháp luật, các quy định về chế độ báo báo có đúng hay không. Trong thực tiễn, giải pháp này chưa đáp ứng được yêu cầu kiểm soát sự gia tăng tín dụng một cách thiếu an toàn của nhiều TCTD, kể cả các khoản cấp tín dụng trong nước cũng như các luồng tín dụng từ nước ngoài đổ vào (mở L/C, vay trả chậm...). Tình trạng thiếu an toàn và chất lượng tín dụng thấp của nhiều TCTD trên thị trường tín dụng vẫn là điều đáng quan tâm hiện nay. Ngoài những nguyên nhân do bản thân sự yếu kém về khả năng kinh doanh tín dụng của một số TCTD, thì một nguyên nhân hết sức quan trọng là hệ thống giám sát và các quy định về an toàn (bao gồm công tác quản lý kiểm tra, kiểm soát và các chuẩn mực an toàn) của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng còn hạn chế, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Chính vì vậy, để tăng cường chất lượng giám sát hoạt động và đảm bảo an toàn, nâng cao chất lượng tín dụng, cần thiết phải thực hiện tốt các giải pháp sau:

- Hệ thống NHNN và các TCTD phải phối hợp thực hiện một cách chặt chẽ giữa quản lý và kinh doanh. Đồng thời với việc quan tâm xây dựng bộ máy thanh tra của NHNN, việc kiểm soát nội bộ của các TCTD phải có chất lượng, nhằm tăng cường quản lý nhà nước, kiểm soát hoạt động tiền tệ, tín dụng của các TCTD để hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh của đúng hướng, an toàn và hiệu quả.

- Để tăng hiệu quả sử dụng vốn, giảm thấp và hạn chế nợ quá hạn mới phát sinh, củng cố chất lượng tín dụng, NHNN cần gắn chặt việc cho vay tái cấp vốn dưới hình thức tái chiết khấu với kết quả giảm nợ quá hạn hiện nay của các TCTD xuống mức cho phép (dưới 5% tổng dư nợ). Kiên quyết không cho phép mở rộng bộ máy tổ chức và quy mô hoạt động khi các điều kiện về năng lực không đủ; xử phát bằng hình thức hạn chế, đình chỉ tạm thời một số nghiệp vụ đối với các TCTD có những vi phạm nghiêm trọng, tái vi phạm cũ nhiều lần hoặc chậm khắc phục các sai phạm đã được phát hiện bởi thanh tra NHNN hoặc của kiểm soát nội bộ các TCTD.

- Phải kết hợp chặt chẽ phương pháp giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ của NHNN đối với các TCTD. Nâng cao trình độ và khả năng thanh tra của đội ngũ cán bộ thanh tra cùng với việc thiết lập hệ thống thông tin tín dụng bằng việc áp dụng công nghệ tin học có hiệu quả.

4. Nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tín dụng, đổi mới cơ chế quản lý tín dụng ngân hàng của NHNN

Tiếp tục đổi mới chính sách cung ứng tín dụng phù hợp theo yêu cầu và mục tiêu của chính sách tiền tệ và chính sách tài chính quốc gia. Chính sách tín dụng vĩ mô cần được hoạch định phù hợp với quá trình và yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu phân bố nguồn lực, cơ cấu thị trường và thay đổi cơ cấu sản phẩm...Chính sách tín dụng của NHNN phải là cơ sở, định hướng cho các TCTD xác định mục tiêu, mức độ, cơ cấu về huy động nguồn vốn cũng như đầu tư tín dụng cho nền kinh tế. Trong điều hành chính sách tín dụng, cần nghiên cứu tiến tới tách bạch chức năng cơ quan chủ quản với chức năng giám sát, kiểm tra đảm bảo an toàn tín dụng và an toàn hệ thống của NHNN. Nhanh chóng xây dựng các tiêu chí an toàn phù hợp với điều kiện thực tế Việt Nam. Tiếp tục ban hành các văn bản quy định nhằm đảm bảo an toàn hệ thống như bảo hiểm tiền gửi, tài sản đảm bảo tín dụng, đăng ký giao dịch bảo đảm...

Về cơ chế tín dụng, nhìn tổng thể, NHNN cần tiếp tục rà soát lại toàn bộ các quy định hiện nay về chế độ và thể lệ tín dụng hiện hành. Tập trung ban hành một hệ thống văn bản mang tính chất khung pháp lý chung tổng hợp tất cả các quy định về loại hình hoạt động tín dụng. Không nên quy định quá chi tiết thuộc nghiệp vụ kinh doanh của các TCTD để hạn chế việc can thiệp sâu không phù hợp với cơ chế thị trường và tạo chủ động cho các TCTD trong kinh doanh tín dụng. Về cơ chế huy động vốn, Nhà nước cần đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền bằng việc phát triển phương thức bảo hiểm tiền gửi của cơ quan Bảo hiểm tiền gửi đã được thành lập. Bảo đảm tính an toàn hệ thống thông qua việc hỗ trợ khả năng chi trả cho các TCTD khi gặp khó khăn. Ràng buộc trách nhiệm của TCTD trong việc chi trả tiền gửi, trách nhiệm của khách hàng trong việc bảo quản lưu giữ các chứng chỉ, thẻ tiền gửi. Về cơ chế cho vay vốn, NHNN cũng chỉ nên xây dựng một thể lệ tín dụng chung theo hướng chỉ quy định những điều hạn chế hoặc không được thực hiện. Vì trong nền kinh tế hiện đại, xu hướng sẽ chuyển dần các loại tín dụng cho vay theo thời hạn truyền thống hiện nay sang hình thức tín dụng dự án là chủ yếu. Phương thức cho vay, thu nợ theo tiến độ triển khai thực hiện dự án. Thể lệ này là khung pháp lý quy định chung cho tất cả các loại hình, các phương thức cấp tín dụng cả bằng đồng VN và bằng ngoại tệ, kể cả quy định rõ cơ chế quản lý và điều hành nguồn vốn. Trong thể lệ tín dụng cần cho phép các TCTD phát triển thêm nhiều sản phẩm mới, như: cho vay trực tiếp, chiết khấu thương phiếu, cho vay dự án, hợp vốn đồng tài trợ, cho thuê tài chính, bảo lãnh, tín dụng tiêu dùng, tín dụng ứng trước, tín dụng trả góp và các hình thức khác. Sử dụng linh hoạt các công cụ quản lý như lãi suất, hạn mức, tín dụng liên ngân hàng, thông tin tín dụng, xử phạt tài chính... để tác động nhằm mở rộng hay thắt chặt tín dụng để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ. Xác định rõ quy trình kiểm tra, kiểm soát, trách nhiệm dân sự và xử lý vi phạm hợp đồng tín dụng theo luật pháp để các TCTD thực hiện. Cơ chế tín dụng đầu tư ưu đãi và tín đụng chính sách phải dựa trên cơ sở kế hoạch hoá và quản lý theo phương thức chặt chẽ như đối với vốn tín dụng ngân hàng, thay cho quản lý như một loại vốn cấp phát thứ hai của ngân sách . Cho vay thực hiện phương châm tập trung, dứt điểm, hiệu quả và đảm bảo nguyên tắc: cho vay theo thứ tự ưu tiên về mức độ hiệu quả và nhu cầu cấp thiết của các dự án đầu tư xây dựng cơ bản; cho vay có lựa chọn những đối tượng chính sách xã hội thực sự cần thiết hỗ trợ bằng tín dụng chính sách.

5. Hòan thiện khung khổ pháp lý, môi trường tín dụng và sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước

Sớm hoàn thiện việc sửa đổi Luật các TCTD để tạo cơ sở pháp lý cơ bản cho việc chỉnh sửa cơ chế và thể lệ nghiệp vụ và tổ chức hoạt động của các TCTD và các quan hệ tín dụng trong nền kinh tế. Sửa đổi các bộ Luật: Luật Phá sản doanh nghiệp đang có những bất cập hiện nay về việc không thừa nhận tư cách có bảo đảm của ngân hàng bảo lãnh, Luật Đất đai quy định quyền hạn của Toà án hoặc các cơ quan có thẩm quyền phán quyết về giá trị của giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất, có thể gây rủi ro cho các TCTD cho vay nhận thế chấp giá trị quyền sử dụng đất chính là giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất đó, cũng như hạn chế quyền chủ động xử lý tài sản đảm bảo là quyền sử dụng đất của ngân hàng; Luật Doanh nghiệp nhà nước trong việc quy định và xác định tài sản dây truyền công nghệ chính làm thế chấp vay vốn, hoặc bất cập có liên quan đến vốn điều lệ của DNNN.

Từng bước phát triển và hoàn thiện thị trường bất động sản nhằm tạo điều kiện vay vốn tín dụng của khu vực kinh tế ngoại quốc doanh, hạn chế bớt việc đầu tư quá mức vào thị trường bất động sản tạo ra những cơn sốt giá giả tạo, bất ổn định cho thị trường tiền tệ và thị trường tín dụng. Nâng cao hiệu quả của các hoạt động tín dụng ưu đãi và hạn chế tác động tiêu cực của hoạt động này đến tính bình đẳng và khả năng điều tiết của thị trưởng tín dụng đối với các quan hệ tín dụng. Năng cao năng lực của NHCSXH và Quỹ hỗ trợ phát triển, thực hiện minh bạch thông tin tín dụng ưu đãi, tăng cường công tác giám sát hoạt động tín đụng ưu đãi để hạn chế những ảnh hưởng đến khả năng quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua thị trường tiền tệ và thị trường tín dụng của NHNN. Nghiên cứu và sắp xếp lại trật tự hệ thống mạng lưới các TCTD, các định chế tài chính, kể cả tổ chức đoàn thể chính trị xã hội có hoạt động tín dụng. Đảm bảo có sự quản lý và điều hành của NHNN trong việc sắp xếp, phân bố hệ thống màng lưới các TCTD một cách hợp lý, tạo sự bình đẳng và lành mạnh trong kinh doanh. Cũng như xem xét mức độ thật sự cần thiết mới cho phép thành lập thêm các chi nhánh (kể cả cấp 1 và cấp 2) trên từng địa bàn, khu vực kinh tế và dân cư trong cả nước. Cần có các luật định, chế tài và biện pháp hữu hiệu ngăn chặn các hoạt động tín dụng ngầm có tính cho vay nặng lãi vẫn còn tồn tại trong nền kinh tế, nhất là lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và kinh tế tiểu thương ở các đô thị.

6. Nhanh chóng phát triển thị trường vốn để giải quyết nhu cầu vốn trung, dài hạn của nền kinh tế, giảm áp lực đối với thị trường tín dụng

Một trong những nguyên nhân gây áp lực mạnh mẽ và làm cho tín đụng ngân hàng tăng trưởng nóng chính do xuất phát từ nhu cầu vốn đầu tư rất lớn của nền kinh tế, nhất là vốn trung dài hạn mà thị trường vốn chưa giải quyết được quan hệ cung cầu đó. Vì vậy, để phát triển thị trường vốn (bao gồm thị trường trái phiếu và thị trường cổ phiếu, tập trung và phi tập trung) cần phải tập trung vào mấy vấn đề sau đây:

Một là: Phát triển và hoàn thiện các định chế tài chính - tín dụng phí ngân hàng với các công cụ như quỹ đầu tư, công ty đầu tư, công ty tài chính… Các định chế tài chính này là những công cụ để tập hợp các nguồn vốn đầu tư toàn xã hội, bao gồm vốn trong công chúng, vốn đầu tư tài chính của các doanh nghiệp, vốn của các tổ chức bảo… Đồng thời, cũng xây dựng các ngân hàng chuyên doanh thực hiện nhiệm vụ đầu tư và chức năng chính là tham gia vào thị trường vốn trung dài hạn, có cơ chế khác với các NHTM hiện nay là tham gia vào thị trường tiền tệ.

Hai là: Phát triển mạnh thị trường trái phiếu trên cơ sở tăng cung cầu trên thị trường bằng các mở rộng cho nhiều thành viên tham gia đấu thầu trái phiếu chính phủ hơn, nghiên cứu đưa ra các khuôn khổ pháp lý thông thoáng cho việc mua bán, cầm cố các trái phiếu chính phủ, cho phép trái phiếu chính phủ được chiết khấu tại NHNN; khuyến khích các công ty lớn làm ăn có hiệu quả, nhất là các tổng công ty nhà nước phát hành và niêm yết trái phiếu công ty; đa dạng hóa giao dịch các loại trái phiếu mới như trái phiếu đô thị, trái phiếu của các NHTM.

Ba là: phải củng cố thật mạnh và có bước phát triển đột phá thị trường chứng khoán ở nước ta, không để tình trạng trầm lắng như hiện nay. Cần phải thực sự đẩy mạnh tiến trình cổ phần hóa các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp nhà nước và thí điểm các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Mạnh dạn cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn của nhà nước trong các ngành viễn thông điện lực, dầu khí… để tạo đà và lực cho thị trường chứng khoán. Tăng cung và cầu cổ phiếu, cùng với thúc đẩy các giao dịch trên thị trường, hoàn thiện khung khổ pháp lý và sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước.

Bốn là: Phát triển thị trường thương phiếu (hối phiếu và lệnh phiếu) mà hiện nay hầu như chúng ta chưa triển khai thực hiện. Nêu thị trường thương phiếu phát triển, không chỉ làm lành mạnh hóa tình trạng chiếm dụng vốn giữa các doanh nghiệp, mà là điều kiện phát triển các dịch vụ chiết khấu và tái chiết khấu, thu nhập dịch vụ của các TCTD. Đặc biệt chia sẻ và giảm áp lực thị trường tín dụng ngắn hạn cho các TCTD đang khá nóng hiện nay.

TS. Đào Minh Tú

(Nguồn: Theo T/c Ngân hàng, số 1/2004)