Kinh tế xanh trong đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam giai đoạn tới

21/10/2012

Hội nghị lần thứ 3 khóa XI của Đảng đã nhấn mạnh nhiệm vụ đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế nhằm thực hiện định hướng phát triển bền vững của đất nước. Đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế được khẳng định là định hướng tổng quát của chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2011-2020. Mục tiêu của việc đổi mới mô hình tăng trưởng là nhằm phát triển theo chiều sâu, tiết kiệm tài nguyên gắn với việc đảm bảo nâng cao công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường, phát huy lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Để thực hiện mục tiêu này, chiến lược tăng trưởng xanh có ý nhĩa hết sức quan trọng.

Báo cáo này sẽ đề cập đến vị trí phát triển kinh tế xanh trong mô hình tăng trưởng, khả năng phát triển và sự lựa chọn hướng phát triển kinh tế xanh trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam.

I. KHÁI NIỆM KINH TẾ XANH - TĂNG TRƯỞNG XANH

Kinh tế xanh/tăng trưởng xanh không chỉ là sự lồng ghép vấn đề môi trường trong phát triển kinh tế, mà nó đã được hiểu sâu rộng hơn, đề cập đến cả phát triển cân bằng, hài hòa giữa các mục tiêu. Ngày nay nó đã được coi là một mô hình phát triển mới, được nhiều nước ủng hộ và hướng theo. Theo Chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (UNEP), nền kinh tế xanh là “nền kinh tế nâng cao đời sống của con người và cải thiện công bằng xã hội, đồng thời giảm thiểu những rủi ro môi trường và những thiếu hụt sinh thái”.

Còn theo OECD, ‘‘tăng trưởng xanh là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo các nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta. Để thực hiện điều này, tăng trưởng xanh phải là nhân tố xúc tác trong việc đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự tăng trưởng bền vững và tăng cường tạo ra các cơ hội kinh tế mới’’. Trong dự thảo Chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến 2050 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã đưa ra quan điểm chiến lược ‘‘Tăng trưởng xanh ở Việt Nam là phương thức thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế để tiến tới việc sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính thông qua nghiên cứu và áp dụng công nghệ hiện đại, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng để nâng cao hiệu quả nền kinh tế, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo, và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một cách bền vững’’. Ở Việt Nam, chiến lược tăng trưởng xanh được coi là một bước cụ thể hóa trong chiến lược phát triển bền vững, là nội dung chính của phát triển bền vững.

Các khái niệm của các tổ chức khác nhau có cách diễn đạt khác nhau nhưng chúng đều quy tụ 3 điểm chính :

(i) Kinh tế xanh là nền kinh tế thân thiện với môi trường, giảm phát thải khí nhà kính để giảm thiểu biến đổi khí hậu.

(ii) Kinh tế xanh là nền kinh tế tăng trưởng theo chiều sâu, hao tổn ít nhiên liệu, tăng cường các ngành công nghiệp sinh thái, đổi mới công nghệ.

(iii) Kinh tế xanh là nền kinh tế tăng trưởng bền vững, xóa đói giảm nghèo và phát triển công bằng.

Qua những khái niệm trên, rõ ràng kinh tế xanh là mô hình mục tiêu của các nước. Theo nghiên cứu của nhóm chuyên gia của UNEP thì quá trình xanh hóa không những tạo thêm của cải, đặc biệt đối với vốn tự nhiên, mà còn gia tăng tốc độ tăng trưởng GDP. Nền kinh tế xanh còn là trụ cột để giảm nghèo. Trong thời kỳ quá độ sang nền kinh tế xanh, những việc làm mới được tạo ra sẽ dần thay thế việc làm bị mất đi do chuyển đổi từ nền kinh tế nâu sang xanh. Tuy nhiên, sẽ có giai đoạn tỷ lệ thất nghiệp tăng cao, đòi hỏi sự đầu tư vào công tác tái đào tạo nguồn nhân lực.

Kinh tế xanh cũng đã được chứng minh là có hiệu quả về mặt dài hạn hơn hẳn kinh tế nâu, đồng thời duy trì và phục hồi vốn tự nhiên. Nếu có ý thức phát triển kinh tế xanh sớm sẽ rút ngắn được quá trình phát triển, nhanh chóng tiến tới xã hội thịnh vượng bền vững.

 II. VỊ TRÍ KINH TẾ XANH TRONG ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG VÀ TÁI CẤU TRÚC NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

1. Sự cần thiết phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng và hướng đến tăng trưởng xanh

Định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế ở nước ta được đặc biệt nhấn mạnh vào thời điểm bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp. Nền kinh tế thế giới đang phải đối mặt với thách thức từ hậu khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và nợ công ở châu Âu. Tuy nhiên, không phải chỉ bối cảnh quốc tế tác động tiêu cực mà do nội tại nền kinh tế Việt Nam đòi hỏi phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng.

Thứ nhất, chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp, do năng suất của nền kinh tế thấp vì ít có sự đóng góp của yếu công nghệ. Những thành tựu phát triển kinh tế của Việt Nam thời gian qua chủ yếu nhờ sự đóng góp của lao động trình độ thấp, vốn và tài nguyên. Trong quá trình phát triển kinh tế, các nguồn lực này được khai thác triệt để và có nguy cơ can kiệt dần. Nền kinh tế bắt đầu tăng trưởng giảm dần và những nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng cao bắt đầu gây bất cân đối. Hiệu quả đầu tư rất thấp: (i) để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao trong điều kiện thể chế chính sách, trình độ lao động, công nghệ yếu kém, Việt Nam đã đổ rất nhiều vốn vào khai thác những nguồn lực có hạn của đất nước. Vì thế, hệ số ICOR của Việt Nam rất cao; (ii) hơn nữa, tình trạng đầu tư dàn trải, thất thoát vốn đâu đó vẫn xảy ra. Chính vì hiệu quả đầu tư thấp nên sự ổn định kinh tế vĩ mô bị đe dọa; (iii) thâm hụt ngân sách ngày một lớn. Với áp lực tăng trưởng cao để thoát khỏi nước nghèo, Chính phủ Việt Nam đã liên tục thúc đẩy đầu tư công thông qua chi tiêu ngân sách và do đó làm thâm hụt ngân sách. Việc giải quyết nó đòi hỏi một chiến lược dài hạn nhằm tái cấu trúc nền kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là việc tái cấu trúc và chỉnh đốn lại khu vực doanh nghiệp nhà nước; và (iv) nền kinh tế dựa nhiều vào FDI: Trong khi Việt Nam vẫn dựa nhiều vào FDI để tăng trưởng nền kinh tế, thì việc thu hút FDI một cách dễ dàng và quản lý FDI thiếu chặt chẽ đã dẫn đến những tác động tiêu cực đối với kinh tế và xã hội. Đầu tiên, là ô nhiễm môi trường: Mặc dù những điều chỉnh luật đã hướng tới việc bảo vệ môi trường và khuyến khích chuyển giao công nghệ tiên tiến nhưng kết quả không có thay đổi nhiều. Từ năm 2000 đến 2005, tỷ lệ vốn FDI thực hiện tập trung vào các ngành có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường vẫn không thay đổi so với trước. Một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chưa tự giác trong việc tuân thủ quy định về bảo vệ môi trường, chỉ vận hành hệ thống xử lý chất thải khi cơ quan chức năng quản lý môi trường phát hiện và xử phạt. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp FDI xả chất thải chưa qua xử lý ra môi trường bị phát hiện. Tiếp đến, là cạn kiệt tài nguyên: Khi đất đai ngày càng khan hiếm, một số địa phương đã “trải thảm đỏ đón nhà đầu tư” trên những diện tích hàng trăm, hàng ngàn ha nhưng không quan tâm đến tính hợp lý và các yêu cầu khác của đất nước, như an ninh lương thực - môi trường; và (v) nền kinh tế tiêu tốn nhiều năng lượng. Do nền kinh tế tăng trưởng dựa chủ yếu vào sản phẩm thô, với sự đóng góp rất hạn chế về công nghệ, cho nên nền kinh tế Việt Nam còn được đánh giá là tiêu tốn nhiều năng lượng do khai thác nhiều tài nguyên khoáng sản và đồng thời cũng thải ra môi trường nhiều chất độc hại do không xử lý thải hiệu quả. Việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguyên liệu thô sẽ khiến nền kinh tế kém bền vững và ổn định.

Thứ hai, thể chế, hạ tầng kém phát triển. Hệ thống hạ tầng và thể chế kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa hỗ trợ hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội, phân bổ nguồn lực kém hiệu quả. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp còn nhiều yếu kém. Cơ chế thị trường được cải thiện, nhưng còn nhiều bất cập. Các công trình xây dựng kéo dài, chậm đưa vào sử dụng. Thị trường khoa học - công nghệ, thị trường lao động, thị trường bất động sản chậm hình thành.

Thứ ba, trình độ lao động chưa được cải thiện nhiều. Mặc dù Việt Nam khá dồi dào về lao động nhưng trình độ lao động yếu kém, tỷ lệ lao động qua đào tạo thấp. Trong khi đó, kỹ năng của người lao động không được cải thiện đáng kể, chưa tiếp cận được với công nghệ hiện đại do các nhà đầu tư (người sử dụng lao động) chưa có chiến lược đào tạo và nâng cao tay nghề cho người lao động một cách hiệu quả. Bên cạnh đó cũng phải kể đến sự yếu kém của hệ thống giáo dục Việt Nam, đặc biệt lĩnh vực dạy nghề.

Những phân tích ở trên cho thấy nguyên nhân nổi bật của những vấn đề trong nền kinh tế hiện nay bắt nguồn từ mô hình tăng trưởng của Việt Nam không còn phù hợp. Vấn đề hiện nay là mô hình tăng trưởng “theo chiều rộng” đã được áp dụng quá lâu. Mô hình tăng trưởng này có thể hoàn toàn phù hợp nếu đặt trong bối cảnh những năm của thập niên

1990. Tuy nhiên, nếu cứ kéo dài tiếp mô hình phát triển này thì nền kinh tế Việt Nam càng gặp nhiều bất cập khi Việt Nam đã bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình. Do đó, để duy trì tính bền vững trong phát triển cần phải thay đổi mô hình tăng trưởng.

Cùng thời điểm này, sự đe dọa của biến đổi khí hậu đã lên đến mức cao nhất từ trước đến nay. Hai năm qua, thế giới đã chứng kiến ảnh hưởng nghiêm trọng của thiên tai mà bắt nguồn từ biến đổi khí hậu gây ra, khiến cho thế giới phải nhìn nhận vấn đề này nghiêm túc hơn. Vì vậy, xu hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của nhiều nước đều hướng tới phát triển gắn với bảo vệ môi trường. Điều này thể hiện ngay trong giai đoạn khủng hoảng khi nhiều nước dành khoản lớn trong gói kích thích kinh tế cho phát triển xanh và tích cực kêu gọi hợp tác trong phát triển xanh.

Tại Việt Nam, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI (2011) đã thông qua Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 cho thấy mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thập kỷ tới sẽ chú trọng vấn đề chất lượng tăng trưởng hay nói cách khác tăng trưởng theo chiều sâu và bền vững theo nghĩa không chạy theo số lượng và đảm bảo các cân đối vĩ mô để ổn định kinh tế về dài hạn; tập trung phát triển những ngành có lợi thế cạnh tranh, có sử dụng công nghệ cao để từng bước nâng cao sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, từng doanh nghiệp, sản phẩm.

2. Vị trí của tăng trưởng xanh

Trong giai đoạn cải cách phát triển vừa qua, Việt Nam đã tìm mọi cách để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chứ chưa thực sự chú tâm đến phát triển bền vững cũng như phát triển xanh hoặc có những lúc, những chỗ Việt Nam đã đề cập đến yếu tố bảo vệ môi trường trong tăng trưởng kinh tế nhưng vẫn chưa được thực hiện tốt.

Với quy mô dân số được dự báo gần 100 triệu dân vào năm 2020 và mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nền kinh tế Việt Nam không còn là nền kinh tế nhỏ, nhu cầu tiêu thụ năng lượng cho sản xuất, giao thông vận tải và sinh hoạt sẽ rất lớn. Trước bối cảnh toàn cầu hiện nay, sự cạnh tranh nguồn lực khan hiếm càng khắc nghiệt, sự đe dọa do biến đổi khí hậu đã đỉnh điểm, quá trình phát triển ở mọi nước đều không thể tách rời việc giảm phát thải ra môi trường để bảo vệ trái đất cho thế hệ tương lai. Việc quản lý phát thải xấu đến môi trường và áp dụng công nghệ hiện đại để giảm tiêu hao nhiên liệu, sử dụng tiết kiệm, phát triển các nguồn năng lượng mới phải được thúc đẩy với những biện pháp mạnh ngay từ bây giờ, và Việt Nam không nằm ngoài tiến trình này.

Theo dự báo, Việt Nam còn là nước bị ảnh hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu. Khi nước biển dâng lên sẽ nhấn chìm nhiều vùng đất ở Việt Nam. Chính vì vậy, dù không đủ sức ngăn chặn sự thay đổi của khí hậu, Việt Nam cũng cần thể hiện là một hạt nhân trách nhiệm bằng cách chủ động trong phát triển nền kinh tế xanh và kêu gọi cộng đồng quốc tế cùng phát triển nền kinh tế xanh.

Vì vậy, yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng phát triển theo chiều sâu, bền vững, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường được đặt ra như nhiệm vụ hàng đầu trong giai đoạn phát triển mới. Theo khái niệm kinh tế xanh được phân tích ở trên, rõ ràng đây là một nội dung trọng yếu của phát triển bền vững. Tất cả những mục tiêu đặt ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam trong giai đoạn tới đều liên quan chặt chẽ với nội dung tăng trưởng xanh.

Đối với Việt Nam, tăng trưởng xanh là mấu chốt giải quyết những bất hợp lý trong mô hình tăng trưởng hiện nay. Bởi vì nó liên quan đến khả năng công nghệ hay mức độ “tinh” trong nền kinh tế. Khi Việt Nam có được những yếu tố này thì năng suất lao động sẽ cao và chất lượng tăng trưởng cao. Điều này dễ đưa đến tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Do đó, tăng trưởng xanh có vị trí rất quan trọng trong chiến lược tăng trưởng theo chiều sâu của Việt Nam trong thời gian tới.

3. Khả năng phát triển kinh tế xanh của Việt Nam

Việt Nam đang hướng đến nền kinh tế xanh trong định hướng tái cấu trúc nền kinh tế. Điều này thể hiện rất rõ ở quyết tâm chính trị của Đảng và Nhà nước Việt Nam khi hiện nay, dự thảo chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam đang được lấy ý kiến rộng rãi góp ý trước khi ban hành.

Tuy nhiên, liệu Việt Nam có thể thành công theo hướng tăng trưởng xanh? Việt Nam còn cách nền kinh tế xanh thực sự bao xa? Dưới đây sẽ phân tích môi trường kinh tế xã hội của Việt Nam (điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, thách thức) để đưa ra nhận định khả năng thành công của Việt Nam và đề xuất hướng lựa chọn cho Việt Nam trong tương lai.

3.1. Điểm mạnh

- Việt Nam đã trải qua 25 năm đổi mới, thu được nhiều thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng: nền kinh tế tăng trưởng cao, cơ sở hạ tầng phát triển, thu nhập đầu người cải thiện nhanh v.v… Hiện tại trình độ công nghệ của Việt Nam còn yếu kém nhưng đang có sự cải thiện nhanh nhờ lợi thế của nước đi sau và gây được sự chú ý của nước ngoài nhờ thành tựu cải cách kinh tế đáng kể trong thời gian qua. Việt Nam cũng đang hội nhập sâu rộng vào cộng đồng quốc tế, tạo ra nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế trong nước. Qua 25 năm thành công trong phát triển đất nước, đã tạo thành chuỗi xu thế thời gian để nhìn vào đó có thể lạc quan hơn vào những đổi mới trong tương lai.

- Việt Nam cũng là một nước thu hút lớn đầu tư từ nước ngoài. Tính đến năm 2010, Việt Nam đứng vị trí thứ 49 về thu hút nhiều vốn FDI trên thế giới, tương đương với Đài Loan và đứng vị trí thứ 5 ở Đông Nam Á. Theo tính toán ở trong nước, khu vực FDI đã đóng góp 25% tổng vốn đầu tư và tạo ra 19% GDP giai đoạn 2006-2010. Nhiều doanh nghiệp FDI đã mang công nghệ hiện đại (mặc dù vẫn còn ít) vào Việt Nam, trong đó có một số tập đoàn nổi tiếng thế giới về công nghệ cao như Intel, Samsung, Canon v.v… Nếu Việt Nam có chính sách phù hợp sẽ khiến các tập đoàn này đầu tư công nghệ cao và góp phần nâng cao năng lực công nghệ của đất nước, kết nối với mạng sản xuất toàn cầu. Điều này rất cần thiết để phát triển nền kinh tế xanh.

- Vốn con người của Việt Nam khá dồi dào, hiện nay có khoảng 86 triệu dân trong đó tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cao, tỷ lệ biết chữ cao, chăm chỉ, và nắm bắt nhanh v.v… Nếu họ được đào tạo tốt thì sẽ là động lực thúc đẩy tăng trưởng xanh của đất nước, khả năng Việt Nam thành công dễ dàng hơn.

3.2. Điểm yếu

- Nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào khai thác thô, sử dụng nhiều tài nguyên thiên nhiên và năng lượng hóa thạch cho phát triển kinh tế và tiêu dùng.

- Việt Nam là nước sản xuất nông nghiệp lớn, hiện chiếm gần ¼ GDP của cả nền kinh tế. Tuy nhiên khu vực này phát thải nhiều khí nhà kính (CH4, N2O). Hiện tại phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp và ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn chiếm 43,1% tổng phát thải khí nhà kính của Việt Nam. Theo dự báo, đến năm 2020, tổng 

2

lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam trong điều kiện bình thường khoảng 96,29 triệu tấn CO, trong đó trồng trọt chiếm 59,2% (phần lớn từ canh tác lúa nước), chăn nuôi 25,3%, ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn 20,1%, thủy sản 15,8%, thủy lợi 0,4% và lâm nghiệp hấp thụ được 20,9% lượng khí trong lĩnh vực nông nghiệp. Bên cạnh đó, khu vực nông nghiệp ngày càng sử dụng nhiều phân hóa học, thuốc trừ sâu, các loại phụ gia, chất kích thích v.v… đã tác động rất xấu đến môi trường, đa dạng sinh học và sức khỏe của con người.

- Nền kinh tế với năng suất thấp do trình độ công nghệ vẫn ở mức thấp nên suất tiêu hao nhiên liệu nhiều. Tốc độ đổi mới công nghệ còn diễn ra chậm chạp. Mặc dù đã có nhà đầu tư nước ngoài mang công nghệ hiện đại vào Việt Nam nhưng con số này còn rất hạn chế. Hơn nữa, chúng lại ít được chuyển giao mà chỉ đặt tại Việt Nam để sản xuất. Phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài vẫn đầu tư vào những lĩnh vực thâm dụng lao động và tài nguyên - được coi là lợi thế so sánh của Việt Nam trong 2 thập kỷ qua.

Có thể nói, sự thành công trong phát triển kinh tế xanh của Việt Nam phụ thuộc nhiều vào công nghệ của các nước phát triển. Đặc biệt, những công nghệ liên quan đến kiểm soát phát thải khí nhà kính vẫn chưa được phát triển ở Việt Nam.

- Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình tăng tốc nên rất khó cắt giảm tiêu hao nhiên liệu hay dùng nhiên liệu thay thế xa xỉ hơn. Bất cứ một quá trình tái cấu trúc nào cũng đòi hỏi phải giảm tốc tăng trưởng để chuyển đổi. Điều này sẽ khiến cho tình trạng việc làm và thu nhập của người dân bị ảnh hưởng trong khi cơ cấu mới chưa phát huy lợi thế. Nếu không kết hợp hài hòa chính sách sẽ dễ dẫn đến những vấn đề mâu thuẫn xã hội sâu sắc.

- Cơ sở hạ tầng mềm cho tăng trưởng xanh chưa phát triển. Muốn thực hiện các chính sách tăng trưởng xanh cần phải có công cụ kiểm soát và chế tài đối với các chủ thể nền kinh tế. Vấn đề đo lường quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế xanh cần được cải thiện. Việt Nam hiện vẫn chưa có cơ sở đánh giá phát thải khí nhà kính của các chủ thể kinh tế.

- Nhận thức của người dân về vấn đề khí nhà kính còn rất hạn chế. Hầu như họ không được thông tin về vấn đề này. Thậm chí ngay cả khi họ được thông tin thì họ cũng coi đây như là vấn đề xảy ra với người khác. Họ chưa nhận thức đầy đủ được những tác động tiêu cực của tình trạng này. Vì thế tình trạng chặt phá rừng, hủy hoại thiên nhiên vẫn diễn ra thường xuyên ở Việt Nam.

3.3. Cơ hội

- Xu hướng quốc tế đang chuyển đổi sang kinh tế xanh. Trong giai đoạn sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008, tăng trưởng xanh hay kinh tế xanh đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia như một động lực thúc đẩy và phục hồi kinh tế toàn cầu và công cụ để phát triển bền vững. Chủ đề này được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong các diễn dàn khu vực và quốc tế và đang được các nước nghiêm túc xem xét áp dụng.

Thực tế là, tăng trưởng xanh đã cho thấy vai trò trong việc giúp các quốc gia vừa đạt được các mục tiêu về tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và đặc biệt là bảo vệ môi trường, thích ứng với điều kiện của biến đổi khí hậu. Rất nhiều quốc gia vận dụng mô hình này như: Đức, Pháp, Hàn Quốc, Trung Quốc, Mỹ v.v… và thu được những kết quả rõ ràng trong tăng trưởng kinh tế, bảo vệ môi trường, giảm lượng khí thải.

Tại khu vực châu Á, “Diễn đàn khí hậu Đông Á” đã được tổ chức tại Seoul vào 29/05/2009, các nước trong khu vực đã trao đổi về việc thiết lập các chiến lược tăng trưởng xanh của Đông Á, tạo cơ hội để các quốc gia châu Á có thể chia sẻ kinh nghiệm và chính sách liên quan. “Sáng kiến Seoul về tăng trưởng xanh Đông Á” đã được thông qua trong khuôn khổ diễn đàn. Các nhà lãnh đạo cấp cao của các nước Đông Á cũng đã thảo luận về phương án tăng cường hợp tác xanh trong việc thiết lập sự ổn định lương thực và năng lượng - những yếu tố cần thiết cho phát triển bền vững của các quốc gia trong khu vực tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN - Hàn Quốc (1-2/06/2009, Jeju, Hàn Quốc) được tổ chức ngay sau diễn đàn trên, các nhà lãnh đạo bày tỏ sự đồng thuận cao đối với chính sách tăng trưởng xanh mà Chính phủ Hàn Quốc đưa ra.Về phần các nước Đông Nam Á, ASEAN cũng ra tuyên bố chung (7/2010) nhấn mạnh: các đối tác và các tổ chức quốc tế cũng có vai trò quan trọng trong hỗ trợ khối ASEAN tiến gần hơn với hình mẫu phát triển “Giảm carbon – Tăng trưởng xanh”. ASEAN sẽ thắt chặt hơn trong hợp tác năng lượng với khu vực Đông Á, trong đó quan tâm nhiều đến Cơ chế phát triển sạch (CDM), phát triển năng lượng hạt nhân dân sự v.v… để hạn chế những tác động xấu trong biến đổi khí hậu.

Tiếp đó, tháng 10/2010, tại Hội nghị cấp cao Á - Âu (ASEM) được tổ chức ở Bỉ, Thủ tướng Việt Nam đã chính thức đề xuất sáng kiến hợp tác Á - Âu về tăng trưởng xanh, sáng kiến này đã nhận được sự ủng hộ của rất nhiều tổ chức, quốc gia thành viên ASEM. Nhiều thành viên ASEM đã đi đầu trong thực hiện xanh hóa nền kinh tế, mà nổi bật là các chiến lược của Liên minh châu Âu, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam v.v… Các quốc gia này đều coi tăng trưởng xanh là một định hướng phát triển quốc gia trong những thập kỷ tới, đặc biệt là trước những hệ quả sâu sắc của cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính toàn cầu. Đầu tháng 10/2011, Diễn đàn Hợp tác Á - Âu về tăng trưởng xanh (Asia- Europe Meeting Green Growth Forum) với chủ đề “Cùng hành động hướng tới các nền kinh tế xanh” được tổ chức ở Việt Nam để tìm các cơ chế hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm phát triển xanh giữa các nước.

Tại Hội nghị Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) bế mạc ngày 13/11/2011 ở Hawaii (Hoa Kỳ), các nhà lãnh đạo APEC cũng đã thông qua Tuyên bố Honolulu, trong đó, APEC xác định cần phải giải quyết các thách thức môi trường và kinh tế của khu vực bằng cách hướng đến nền kinh tế xanh, carbon thấp, nâng cao an ninh năng lượng và tạo nguồn mới cho tăng trưởng kinh tế và việc làm. APEC đã thống nhất năm 2012, sẽ phát triển danh mục hàng hóa môi trường (hàng hóa xanh) và giảm thuế quan đối các mặt hàng này vào cuối năm 2015. APEC sẽ xóa bỏ rào cản phi thuế quan bao gồm các yêu cầu tỷ lệ nội địa hóa đối với các dịch vụ và hàng hóa môi trường. Để thúc đẩy các mục tiêu tăng trưởng xanh, APEC sẽ thực hiện các biện pháp như giảm 45% cường độ sử dụng năng lượng của APEC vào năm 2035 so với năm 2005, kết hợp các chiến lược phát triển về thải carbon thấp vào các kế hoạch tăng trưởng kinh tế thông qua dự án Thành phố mẫu carbon thấp v.v…

Ở cấp độ toàn cầu, Diễn đàn Tăng trưởng xanh Toàn cầu (Global Green Growth Forum - 3GF) lần thứ nhất đã diễn ra tại Copenhagen - Đan Mạch trong hai ngày 11-12/10/2011. Đây là một sự kiện được tổ chức bởi Chính phủ Đan Mạch với sự phối hợp đồng sáng kiến của các chính phủ Hàn Quốc và Mexico. 3GF được tổ chức với mục tiêu chính là thúc đẩy tăng trưởng xanh thông qua cơ chế hợp tác công - tư giữa các chính phủ với khối doanh nghiệp.

- Nỗ lực chuyển đổi mô hình tăng trưởng đang được thực hiện với quyết tâm chính trị cao. Đề án xây dựng chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam sắp được ban hành, hiện đang lấy ý kiến rộng rãi từ các địa phương và các doanh nghiệp.

- Tiềm năng về năng lượng tái tạo của Việt Nam khá lớn. Thủy điện nhỏ của Việt Nam rất lớn. Tiềm năng năng lượng gió: Với hơn 3.000 km bờ biển và nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, Việt Nam có nhiều thuận lợi trong phát triển năng lượng gió. Hiện tại cũng đã có một số dự án điện gió được triển khai ở một số tỉnh Nam Trung Bộ (Bình Thuận, Ninh Thuận) và tại một số huyện đảo. Tiềm năng năng lượng sinh khối: chủ yếu từ gỗ, phế thải từ cây nông nghiệp, chất thải chăn nuôi, rác thải đô thị và chất thải hữu cơ khác v.v… đều là những thứ rất có sẵn ở Việt Nam. Nguồn năng lượng sinh khối ở Việt Nam rất lớn và khá đa dạng. Hiện tại ước tính mỗi năm có khoảng 60 triệu tấn sinh khối được tạo ra từ nguồn phụ phẩm- phế thải, trong đó gần 40% sinh khối được khai thác đưa vào sử dụng cho mục đích năng lượng. Tiềm năng năng lượng mặt trời: Việt Nam có tổng số giờ nắng trong năm dao động từ 1.400 đến 3.000 giờ, tổng bức xạ mặt trời trung bình năm khoảng

230-250kcal/cm2/ngày theo hướng tăng dần về phía Nam. Con số này cho thấy Việt Nam có tiềm năng khá về năng lượng mặt trời.

Tất cả những loại năng lượng trên vẫn ở dạng tiềm năng là chính, chưa được khai thác phục vụ cho nền kinh tế và xã hội của Việt Nam.

3.4. Thách thức

- Trên thế giới vẫn còn không ít quan điểm phản đối kinh tế xanh. Họ cho rằng nó chỉ làm tốn kém của cải vật chất mà không tạo được lợi ích tương xứng. Thậm chí có những quan điểm cho rằng nền kinh tế xanh là điều xa xỉ chỉ các nước giàu mới đủ khả năng chi trả và thậm chí đây là âm mưu của các nước phát triển nhằm kìm hãm các nước đang phát triển.

- Thách thức từ sự hợp tác quốc tế kém hiệu quả: để giảm phát thải khí nhà kính, bảo vệ môi trường là công việc của cả thế giới chứ không chỉ riêng nước nào. Những ảnh hưởng do sự xuống cấp của môi trường có tác động đến nhiều nước trong khu vực và thế giới. Vì vậy, để xử lý vấn đề về môi trường - những vấn đề có tính thách thức toàn cầu này đòi hỏi các nước phải cùng hành động. Trong khi đó, không phải nước nào cũng có thiện chí và thực hiện đúng cam kết với đối tác. Do đó, nó có thể phá vỡ mục tiêu chống biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh ở Việt Nam.

- Để phát triển nền kinh tế xanh cần phải có sự cải thiện mạnh mẽ về năng lực công nghệ. Trong khi trình độ công nghệ còn hạn chế, Việt Nam còn nguy cơ đón nhận làn sóng di chuyển công nghệ lạc hậu từ các nước phát triển hơn sang các nước kém phát triển hơn. Gần đây Trung Quốc chú trọng nâng cao chất lượng dự án FDI tại nước này. Họ đã hạn chế hoặc cấm những dự án công nghiệp nặng hao tổn nhiên liệu và ô nhiễm môi trường, và rất có thể những dự án này sẽ chuyển sang các nước kém phát triển hơn trong đó có Việt Nam. Theo thông báo của chính phủ Trung Quốc vào tháng 10/2011, nước này sẽ loại bỏ 2.255 doanh nghiệp lạc hậu, hiệu quả thấp trên cả nước. Cho nên các doanh nghiệp Việt Nam cần tránh những thiết bị từ những doanh nghiệp này.

Mặt khác, hiện nay chi phí tiền công lao động bắt đầu tăng lên ở Trung Quốc. Nhiều doanh nghiệp ở vùng ven biển đã đóng cửa, một phần cũng do thị trường co hẹp, nhưng chủ yếu là chi phí lao động cao và những chính sách chống gây ô nhiễm môi trường của chính phủ làm tăng chi phí sản xuất. Vì thế, các nhà đầu tư sẽ tìm đến thị trường Việt Nam để thay thế với giá nhân công rẻ hơn và nhiều ưu đãi hơn. Nếu những doanh nghiệp này vì đầu tư vào ngành thâm dụng lao động hoặc gây ô nhiễm nặng từ Trung Quốc chuyển sang, hiếm khi là công nghệ cao mà sẽ là sự chuyển giao công nghệ lạc hậu. Đây là điều Việt Nam nên hết sức thận trọng.

- Thách thức trong giải quyết mâu thuẫn giữa công nghiệp hóa và giảm thải khí nhà kính. Việt Nam hiện vẫn là nước có thu nhập thấp, trình độ phát triển thấp, liệu Việt Nam có thể từ bỏ mục tiêu tăng trưởng cao trong ngắn hạn để đạt mục tiêu xanh hóa?

- Thách thức cho các sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam khi bị các nước áp đặt tiêu chuẩn môi trường cao hơn. Đây là vấn đề Việt Nam đã và đang phải đối mặt. Cùng với Việt Nam, nhiều nước đã chuyển nhanh sang nền kinh tế xanh và các yêu cầu đối với hàng hóa của nước ngoài nhập vào cũng cao hơn. Khả năng các doanh nghiệp Việt Nam đáp ứng được các yêu cầu của họ sẽ khó hơn do nền tảng và điều kiện sản xuất ở Việt Nam còn có hạn.

4. Lựa chọn phát triển kinh tế xanh đáp ứng yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng

Qua việc đánh giá điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong phát triển kinh tế xanh, rõ ràng Việt Nam còn rất nhiều yếu kém và thách thức phải vượt qua. Việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh khó có thể tiến hành nhanh và Việt Nam vẫn còn cách “nền kinh tế xanh thực sự” rất xa.

Mặc dù vậy, phải khẳng định rằng định hướng tăng trưởng xanh đối với Việt Nam được thực hiện càng sớm càng tốt. Bởi vì nó không chỉ liên quan đến vấn đề xanh hóa sản xuất mà còn tác động đến ý thức của người dân, xanh hóa lối sống và tiêu dùng. Tuy nhiên, việc thực hiện tăng trưởng xanh phải phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Do thúc đẩy tăng trưởng xanh đòi hỏi chi phí lớn và có sự đánh đổi mục tiêu với tăng trưởng nâu. Khi nền kinh tế có nền tảng vững chắc có thể đẩy nhanh chuyển hướng sang nền kinh tế xanh (các nước EU, Mỹ, Hàn Quốc v.v… có thể làm được điều này) nhưng khi kinh tế còn hạn chế như Việt Nam hiện nay, việc này cần phải xem xét kỹ.

Để chuyển nền kinh tế nâu sang kinh tế xanh, chúng ta đều phải sắp xếp lại nền kinh tế. Quá trình này sẽ buộc phải giảm tốc độ tăng trưởng hoặc tự nó làm giảm tăng trưởng trong ngắn hạn và nó sẽ ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập của người lao động. Đối với Việt Nam, một nước thu nhập trung bình thấp – áp lực đẩy nhanh tăng trưởng để thoát khỏi đói nghèo và đuổi kịp các nước là rất cao. Chính vì vậy, cần phải có sự chuyển hướng hài hòa, nếu không Việt Nam sẽ gặp những vấn đề xã hội do sự chuyển đổi này gây ra. Khi Việt Nam đã đạt trình độ phát triển cao hơn (sau năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp), sự chuyển đổi sang nền kinh tế xanh có thể được đẩy nhanh hơn.

Rõ ràng, tăng trưởng xanh là nội dung quan trong cần hướng tới trong quá trình thực hiện đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Kinh nghiệm phát triển của các nước cho thấy việc chuyển sang nền kinh tế xanh tạo ra tiềm năng to lớn cho phát triển bền vững và giảm đói nghèo. Chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng tăng trưởng xanh là sự khẳng định thực hiện chiến lược kinh tế xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011-2020. Tất nhiên, quá trình này đòi hỏi phải có sự đổi mới thực sự trong tư duy phát triển và quyết liệt trong hành động cụ thể.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ KH-ĐT (2012), dự thảo Chiến lược tăng trưởng xanh của

Việt Nam thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn 2050.

2. Bộ KH và ĐT. Báo cáo định hướng tái cơ cấu kinh tế chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả, năng suất và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế (Tài liệu phục vụ Hội nghị Chính phủ với Lãnh đạo các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương).

3. UNEP (2011), Hướng tới nền kinh tế xanh – Lộ trình cho phát triển bền vững và xóa đói giảm nghèo, Bản dịch của Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội 2011, tr.13.

4. UNCTAD (2011), World Investment Report 2011.

5. Bùi Quang Tuấn (2011), Khai thác và sử dụng năng lượng xanh ở Việt Nam, Hội thảo khoa học quốc tế “Chiến lược tăng trưởng xanh của Hàn Quốc và những gợi ý cho Việt Nam, Viện Nghiên cứu Đông Bắc Á, Hà Nội, ngày 27/12/2011.

6. Phùng Xuân Nhạ và cộng sự, 2010, Điều chỉnh chính sách đầu tư nước ngoài ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập KTQT, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội 2010.

GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn-Phó Chủ tịch Viện KHXHVN và TS. Nguyễn Xuân Trung

(Nguồn: Kỷ yếu điễn đàn kinh tế mùa xuân (2012)-Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam)