THÔNG BÁO KẾT LUẬN CỦA ỦY BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI TẠI PHIÊN HỌP THỨ 33

27/04/2019

Từ ngày 10 đến 19/4/2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội họp phiên thứ 33 tại Hà Nội dưới sự chủ tọa của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân để cho ý kiến về 14 nội dung và thông qua 07 Nghị quyết.

Thực hiện chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội trân trọng thông báo kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp như sau:

1. Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Sở hữu trí tuệ

Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành việc Chính phủ trình Quốc hội xem xét, thông qua dự án Luật này tại kỳ họp thứ 7 tới (tháng 5/2019) là thực hiện đúng yêu cầu của Quốc hội tại Nghị quyết số 72/2018/QH14 về phê chuẩn Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) cùng các văn kiện liên quan; dự án Luật đã bảo đảm đủ điều kiện về hồ sơ, thủ tục. Do đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Sở hữu trí tuệ để báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định thông qua tại kỳ họp thứ 7 theo quy trình, thủ tục rút gọn tại một kỳ họp.

Phiên họp thứ 33 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao sự nỗ lực chuẩn bị của Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan và các Ủy ban chịu trách nhiệm thẩm tra dự án Luật, trong thời gian gấp, đã tích cực chuẩn bị, phối hợp chặt chẽ, hoàn thiện đầy đủ hồ sơ, tài liệu, bảo đảm yêu cầu theo quy định để trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về nội dung tại phiên họp này. Tuy thực hiện theo thủ tục rút gọn để bảo đảm thực hiện cam kết trong CPTPP, nhưng do đây là các nội dung có liên quan, tác động đến các doanh nghiệp và người dân, nên trong thời gian từ nay đến kỳ họp Quốc hội, đề nghị Chính phủ tiếp tục chỉ đạo cơ quan soạn thảo có hình thức phù hợp để lấy thêm ý kiến các đối tượng chịu sự tác động của dự án Luật và chuẩn bị đầy đủ văn bản quy định chi tiết để trình Quốc hội cùng dự án Luật.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí với phạm vi điều chỉnh của dự án Luật chỉ giới hạn trong việc nội luật hóa các cam kết đã có hiệu lực trong Hiệp định CPTPP và đã được xác định trong Phụ lục 3 của Nghị quyết số 72/2018/QH14 ngày 12/11/2018 của Quốc hội; nhất trí với thời điểm dự kiến có hiệu lực của Luật như đề xuất của Chính phủ. 

Đề nghị Chính phủ chỉ đạo cơ quan soạn thảo phối hợp với cơ quan thẩm tra và các cơ quan khác có liên quan, nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến trong Báo cáo thẩm tra sơ bộ và ý kiến phát biểu của các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội để hoàn thiện dự án Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7. Giao Ủy ban Pháp luật của Quốc hội chủ trì, phối hợp với Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và các cơ quan liên quan thẩm tra chính thức dự án Luật này theo quy trình để trình Quốc hội.

2. Về dự án Luật Lực lượng dự bị động viên

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật Lực lượng dự bị động viên và tên gọi, nội dung như Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra sơ bộ của Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội. Hồ sơ dự án Luật được chuẩn bị công phu, đủ điều kiện trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7. Dự thảo Luật đã cơ bản thể chế hóa được các nghị quyết của Đảng, phù hợp với quy định của Hiến pháp và pháp luật có liên quan, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị lưu ý một số vấn đề sau:

- Bám sát và tiếp cận tư duy mới trong xây dựng, huấn luyện, sử dụng Lực lượng dự bị động viên (LLDBĐV) trước yêu cầu của cuộc chiến tranh hiện đại. 

- Tiếp tục rà soát, bảo đảm thống nhất trong hệ thống pháp luật; bám sát chủ trương của Đảng về yêu cầu tinh giản biên chế, cải cách thủ tục hành chính, tránh tăng ngân sách; tránh chồng chéo, nhắc lại nội dung của các luật chuyên ngành.

- Đánh giá cụ thể, rõ ràng hơn tác động việc thực hiện chế độ, chính sách cho xây dựng, huy động LLDBĐV; nghiên cứu bổ sung quy định về trung tâm huấn luyện dự bị động viên trên cơ sở sử dụng cơ sở vật chất đã có của các đơn vị quân đội để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ, tránh làm tăng tổ chức, biên chế.

- Quy định chặt chẽ, bảo đảm quyền về tài sản của công dân trong đăng ký, quản lý phương tiện kỹ thuật; làm rõ thẩm quyền và phân biệt việc trưng dụng theo Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản với việc huy động phương tiện kỹ thuật trong dự thảo Luật.

- Nghiên cứu, làm rõ cơ sở để tổ chức biên chế đơn vị dự bị động viên, độ tuổi sắp xếp quân nhân dự bị vào đơn vị dự bị động viên; quy định về thẩm quyền huy động LLDBĐV, chế độ, chính sách đối với quân nhân dự bị và gia đình họ để bảo đảm chặt chẽ, có tính khả thi; làm rõ mối quan hệ, trách nhiệm của các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng đối tượng thuộc LLDBĐV. 

Yêu cầu cơ quan soạn thảo và các cơ quan hữu quan tiếp tục rà soát, hoàn thiện dự án Luật theo ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội để trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7. 

3. Về dự án Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia

Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng dự thảo Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia đã được tiếp thu nghiêm túc các ý kiến đại biểu Quốc hội. Cơ quan thẩm tra và Ban soạn thảo đã tích cực thực hiện nhiều hoạt động để phục vụ cho công tác giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự án Luật này. Tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị cơ quan chủ trì thẩm tra và Ban soạn thảo cần tiếp tục rà soát các quy định dự thảo Luật, lưu ý thêm các vấn đề sau:

- Tiếp tục đưa ra 02 phương án về tên gọi của Luật để Quốc hội thảo luận (Luật Phòng, chống tác động có hại và kiểm soát rượu, bia vì sức khỏe con người và Luật Phòng, chống tác hại của rượu, bia). Tên Luật cần thể hiện rõ mục tiêu bảo vệ sức khỏe con người, đồng thời phù hợp với những cam kết quốc tế liên quan mà Việt Nam đã tham gia.

- Chính sách thuế liên quan đến phòng, chống tác hại của rượu, bia cần được quy định mang tính nguyên tắc, theo hướng áp dụng mức thuế hợp lý để giảm mức tiêu thụ của rượu, bia.

- Quy định liên quan đến việc cấm bán rượu, bia 15 độ cồn trở lên trên Internet cần xây dựng để phù hợp với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cũng như phù hợp với xu hướng kinh doanh hiện nay.

- Quy định liên quan đến hoạt động quảng cáo, khuyến mại, tài trợ rượu, bia cần nghiên cứu để phù hợp với quy định của Luật Thương mại và Luật Quảng cáo.

- Quy định liên quan đến nguồn kinh phí cho hoạt động phòng, chống tác hại của rượu, bia đề nghị xây dựng theo phương án ngân sách nhà nước bảo đảm theo phân cấp ngân sách hiện hành, được bố trí trong dự toán ngân sách nhà nước hằng năm của các cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ phòng, chống tác hại của rượu, bia nhằm đảm bảo sự thống nhất của việc quản lý ngân sách nhà nước.

- Quy định liên quan đến quản lý rượu thủ công, cần nghiên cứu để xây dựng theo hướng đảm bảo chất lượng, an toàn thực phẩm của rượu thủ công trên thị trường và không tác động bất lợi đến rượu thủ công truyền thống. 

- Quy định về công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục, vai trò của người đứng đầu, gia đình, nhà trường và toàn xã hội và quy định về các biện pháp giảm tác hại của rượu, bia cần được đầu tư và quy định cụ thể hơn.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Ủy ban về các vấn đề Xã hội của Quốc hội phối hợp với Ban soạn thảo tiếp tục lấy ý kiến, tăng cường đối thoại với các đối tượng chịu sự tác động của dự án Luật, nghiên cứu, rà soát dự thảo Luật này để bảo đảm tính khả thi, tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên.

4. Về dự án Luật Thư viện

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá cao nỗ lực của Chính phủ trong việc tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại Phiên họp thứ 32 để hoàn thiện hồ sơ dự án Luật. Đồng thời, cơ bản nhất trí với các nội dung trong Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội. Căn cứ vào Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hồ sơ dự án Luật Thư viện đủ điều kiện để trình Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7. 

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị cơ quan soạn thảo lưu ý các vấn đề sau:

- Tiếp tục rà soát, chỉnh sửa các khái niệm cơ bản như “thư viện”, “thư viện số”, “hoạt động thư viện” làm căn cứ cho các quy định điều chỉnh tại dự thảo Luật và chính sách phát triển thư viện.

- Nghiên cứu quy định nguyên tắc về vai trò, trách nhiệm của thư viện trung tâm có vai trò quan trọng trong dự thảo Luật để đảm bảo hiệu lực và tính khả thi.

- Quy định cụ thể loại thư viện nào được phép lưu trữ các tài liệu vi phạm hành vi bị nghiêm cấm (Điều 6 của dự thảo Luật) nhằm mục đích nghiên cứu và giới hạn đối tượng được phép tiếp cận các tài liệu này; làm rõ sự khác biệt giữa “tàng trữ” và “lưu trữ” các tài liệu này. 

- Quy định cụ thể hơn về mô hình hoạt động, trách nhiệm của thư viện thuộc cơ sở giáo dục; trách nhiệm của Nhà nước và cơ quan chủ quản để thúc đẩy phát triển thư viện thuộc cơ sở giáo dục.

- Rà soát một số điều có nội dung không tương thích với tên điều (các Điều 16, 17 và 18 của dự thảo Luật). 

- Cân nhắc tính khả thi của quy định người bị tạm giam, tạm giữ được quyền sử dụng thư viện tại nơi tạm giam, tạm giữ (khoản 5 Điều 39 của dự thảo Luật).

- Làm rõ hơn về loại hình thư viện tích hợp, thư viện truyền thống và có quy định cụ thể đối với loại hình này trong dự thảo Luật.

- Cần cân nhắc thêm về vấn đề xếp hạng thư viện, bổ sung chính sách định hướng xếp hạng, xin ý kiến đại biểu Quốc hội. 

Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu cơ quan soạn thảo và các cơ quan liên quan tiếp tục rà soát, hoàn thiện dự án Luật theo ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; giao Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội thẩm tra chính thức dự án Luật theo quy trình để trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7.

5. Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng hồ sơ, tài liệu về dự án Luật được Chính phủ chuẩn bị đầy đủ, đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí với phạm vi sửa đổi, bổ sung trong Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức như đề nghị của Chính phủ, bảo đảm thể chế hóa kịp thời các chủ trương, quan điểm chỉ đạo của Đảng và khắc phục một số vấn đề tồn tại, hạn chế phát sinh trong quá trình thực hiện Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức hiện hành. Bên cạnh đó, đề nghị Chính phủ và các cơ quan hữu quan tiếp tục nghiên cứu một số nội dung khác như: về liên thông trong công tác cán bộ; cơ chế, chính sách đối với người có tài năng; về phân cấp, phân quyền mạnh mẽ, hợp lý gắn quyền hạn với trách nhiệm; cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát… để có thể bổ sung những quy định có tính nguyên tắc trong Luật, giao Chính phủ tiếp tục hướng dẫn, quy định cụ thể trong các văn bản, đề án khác.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí việc điều chỉnh khái niệm “công chức” như đề nghị của Chính phủ; tán thành giữ quy định trong Luật Cán bộ, công chức về phân loại công chức, các ngạch công chức cơ bản và giao Chính phủ trong trường hợp cần thiết có thể quy định bổ sung ngạch công chức để làm cơ sở cho việc xây dựng thang bảng lương trong thời gian tới; tán thành sửa đổi, bổ sung quy định về tuyển dụng công chức theo hình thức thi tuyển, xét tuyển và tăng cường thực hiện phân cấp thẩm quyền trong tuyển dụng. Tuy nhiên, cùng với việc phân cấp, cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm của người đứng đầu và có biện pháp kiểm tra, thanh tra, giám sát phù hợp để bảo đảm chất lượng, hiệu quả của công tác tuyển dụng.

Để tiếp tục hoàn thiện hồ sơ dự án Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7, đề nghị Chính phủ khẩn trương nghiên cứu, nghiêm túc tiếp thu ý kiến phát biểu của các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ý kiến thẩm tra của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, trong đó lưu ý các nội dung sau đây:

- Về chính sách đối với người có tài năng, cần bổ sung trong dự thảo Luật giải thích từ ngữ “người có tài năng”, quy định một số nguyên tắc chung trong việc xác định cơ chế, chính sách bảo đảm thu hút được những người thực sự có tài năng làm việc; trên cơ sở đó giao Chính phủ, các cơ quan hữu quan quy định cho phù hợp với từng lĩnh vực, ngành, địa phương.

- Liên quan đến quy định về thực hiện chế độ hợp đồng xác định thời hạn đối với viên chức tuyển dụng mới, đề nghị tiếp tục hoàn thiện lập luận đối với cả 02 phương án như đề xuất trong dự thảo Luật để báo cáo, xin ý kiến đại biểu Quốc hội tại kỳ họp, trong đó cần cân nhắc, tính toán kỹ về hiệu quả và tác động xã hội để vừa bảo đảm yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả nhưng cũng hạn chế việc tạo ra tâm lý e ngại, bất ổn trong đội ngũ viên chức hiện nay.

- Về hình thức xử lý kỷ luật đối với công chức, tiếp tục giữ hình thức kỷ luật “giáng chức” để có thêm nhiều lựa chọn trong xem xét hình thức xử lý kỷ luật, phù hợp với đối tượng, tính chất, mức độ vi phạm. Bên cạnh đó, tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định về thời hiệu, thời hạn xử lý kỷ luật cho phù hợp hơn.

- Về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức đã nghỉ việc, nghỉ hưu, cần tiếp tục quy định rõ hơn những nguyên tắc về hình thức, thời hiệu áp dụng, cơ chế, trình tự, thủ tục xem xét kỷ luật làm cơ sở để Chính phủ tiếp tục quy định chi tiết. Riêng về hậu quả pháp lý, nên nghiên cứu, bổ sung các hình thức chế tài gắn với quyền lợi cá nhân về vật chất, tinh thần của người vi phạm để có tính răn đe, thuyết phục cao hơn. 

- Về tuổi nghỉ hưu của cán bộ, công chức, Chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu, đánh giá cụ thể các phương án quy định tuổi nghỉ hưu và cân nhắc kỹ việc trình Quốc hội quy định về nội dung này trong Bộ luật Lao động hay trong Luật Cán bộ, công chức để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Quốc hội trong thời gian tới.

6. Về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng đây là dự án Luật rất quan trọng nhằm kịp thời thể chế hóa chủ trương tiếp tục cải cách tổ chức bộ máy tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả tại Nghị quyết số 18-NQ/TW của Trung ương, Kế hoạch số 07-KH/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 56/2017/QH14 của Quốc hội, đồng thời khắc phục những vướng mắc, bất cập trong quá trình thi hành Luật thời gian qua. Hồ sơ tài liệu về dự án Luật được chuẩn bị đầy đủ, đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành với đề nghị của Chính phủ trong lần này, chỉ sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương; còn những nội dung khác về tổ chức và hoạt động của Chính phủ và chính quyền địa phương được đề cập trong Nghị quyết của Trung ương, của Quốc hội thì sẽ được cụ thể hóa, thể chế hóa bằng các văn bản khác và cụ thể hóa trong quá trình đổi mới hoạt động chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, chính quyền địa phương. 

Để tiếp tục hoàn thiện dự án Luật trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7, đề nghị Chính phủ khẩn trương nghiên cứu, tiếp thu nghiêm túc, kỹ lưỡng ý kiến của các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ý kiến thẩm tra của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội, trong đó lưu ý thực hiện các nội dung sau đây:

- Đánh giá tác động kỹ hơn, sâu hơn, lý giải rõ hơn những mặt thuận, mặt chưa thuận về từng phương án lựa chọn đối với những chính sách mới được thể hiện trong dự thảo Luật để làm cơ sở cho cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định, nhất là đối với các nội dung có liên quan đến thay đổi, điều chỉnh về cơ cấu, mô hình tổ chức như việc giảm số lượng đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, giảm số Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và số Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, tăng số Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã loại II,… Những vấn đề nào đã rõ, đã chín, đạt được sự đồng thuận, thống nhất cao thì sửa đổi, bổ sung trong luật, những vấn đề nào mới, chưa rõ, phức tạp, còn có ý kiến khác nhau thì báo cáo cấp có thẩm quyền cho phép thực hiện thí điểm theo đúng tinh thần Nghị quyết trung ương.

- Nghiên cứu, đánh giá một cách tổng thể về mô hình, cơ cấu tổ chức của Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và chính quyền địa phương để có giải pháp sắp xếp tinh gọn, phù hợp với đặc điểm, tính chất từng loại cơ quan, từng loại đơn vị hành chính và phải đặt trong tổng thể đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị.

- Tiếp tục rà soát, quy định cụ thể hơn vấn đề phân quyền, phân cấp giữa trung ương và địa phương trong Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính quyền địa phương và các luật khác có liên quan để đẩy mạnh hơn nữa việc phân quyền, phân cấp cho địa phương, nhất là những địa phương đã tự chủ được kinh phí ngân sách.

- Về việc giảm số Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thấy rằng, khi Quốc hội khóa XIII xem xét, thông qua Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 đã thảo luận, cân nhắc rất kỹ và quyết định phải tiếp tục tăng cường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân - cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương - thông qua việc bổ sung thêm nhiệm vụ, quyền hạn, kiện toàn tổ chức bộ máy của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội đồng nhân dân, nâng chức danh “Ủy viên Thường trực” của Hội đồng nhân dân theo Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003 lên thành Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân,… Đây là những vấn đề đã báo cáo và được sự đồng ý của Bộ Chính trị (khóa XI) trước khi đưa vào Luật Tổ chức chính quyền địa phương. Để bảo đảm thận trọng trong việc nghiên cứu, đổi mới tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị nội dung này cần được báo cáo, xin ý kiến của Bộ Chính trị trước khi đưa vào dự thảo Luật trình Quốc hội.

- Về những nội dung cụ thể khác như phiên họp bất thường của Hội đồng nhân dân, nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực Hội đồng nhân dân, việc quy định khung cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân và bộ máy giúp việc của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân,… đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát, tiếp thu, chỉnh lý, thể hiện trong dự thảo Luật. 

7. Về dự án Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam và tên gọi, bố cục, nội dung của dự thảo như Tờ trình của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra sơ bộ của Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội. Hồ sơ dự án Luật đã được chuẩn bị công phu, bảo đảm các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện để trình Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7. Nội dung dự thảo Luật phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, cơ bản bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật, tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Yêu cầu cơ quan soạn thảo và các cơ quan liên quan tiếp tục rà soát, hoàn thiện dự án Luật theo ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong đó chú ý các nội dung sau đây:

- Bổ sung thông tin, số liệu, hoàn thiện Tờ trình, Báo cáo đánh giá tác động và Báo cáo tổng kết theo ý kiến thẩm tra sơ bộ của Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội. 

- Tiếp tục rà soát kỹ lưỡng dự thảo Luật để bảo đảm tính hợp hiến, tính hợp pháp, tính thống nhất của dự thảo Luật với hệ thống pháp luật và tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

- Quy định trình tự, thủ tục cấp các loại giấy tờ xuất nhập cảnh bảo đảm chặt chẽ, hợp lý và rút ngắn thời gian cấp nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho công dân; quy định cụ thể, tách bạch đối tượng cấp hộ chiếu ngoại giao, đối tượng cấp hộ chiếu công vụ và bổ sung các quy định cơ bản về cấp giấy thông hành.

- Bổ sung các hành vi bị nghiêm cấm, điều kiện xuất cảnh, nhập cảnh và cụ thể hóa các trường hợp bị hoãn nhập cảnh cho rõ ràng, minh bạch, chặt chẽ, thống nhất với hệ thống pháp luật, đáp ứng yêu cầu bảo đảm an ninh trật tự và bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.

- Quy định rõ trách nhiệm của các bộ chủ quản trong việc chủ trì, phối hợp thực hiện quản lý nhà nước cho phù hợp với thực tiễn; bổ sung quy định về phối hợp khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu về xuất nhập cảnh.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội thẩm tra chính thức dự án Luật theo quy trình để trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7.

8. Về dự án Luật Chứng khoán (sửa đổi)

Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận thấy hồ sơ dự án Luật được chuẩn bị chu đáo, bảo đảm các quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đủ điều kiện để trình Quốc hội thảo luận, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí về sự cần thiết và phạm vi điều chỉnh của dự thảo Luật Chứng khoán (sửa đổi). Đồng thời, đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp thu ý kiến của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và ý kiến để tiếp tục hoàn thiện dự án Luật, tập trung vào các vấn đề chính sau:

- Về sự phù hợp của dự án Luật với Hiến pháp và pháp luật liên quan: tiếp tục rà soát để bảo đảm phù hợp với Hiến pháp và các luật như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật Thanh tra, Bộ luật Hình sự... 

- Về điều kiện chào bán chứng khoán của công ty đại chúng: Thống nhất việc nâng điều kiện về mức vốn điều lệ của công ty đại chúng từ 10 tỷ đồng lên 30 tỷ đồng để bảo đảm phù hợp với quy mô thị trường chứng khoán hiện nay. Tuy nhiên, cần đánh giá đầy đủ tác động kinh tế-xã hội và nghiên cứu điều khoản chuyển tiếp hợp lý.

- Về chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo: tán thành việc quy định về chào bán chứng khoán riêng lẻ của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo nhằm khơi thông dòng vốn hỗ trợ các doanh nghiệp này. Tuy nhiên, cần nghiên cứu phạm vi chào bán và đánh giá tác động của quy định này, bảo đảm nguyên tắc bình đẳng tại Luật Doanh nghiệp. 

- Về vị trí, quyền hạn, nhiệm vụ của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước: thống nhất theo hướng tăng thẩm quyền cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và bảo đảm tính độc lập về mặt nghiệp vụ, tuy nhiên Ủy ban này vẫn trực thuộc Bộ Tài chính như hiện nay. 

- Về mô hình Sở giao dịch chứng khoán: thống nhất theo hướng chỉ có duy nhất Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và đặt tại trung tâm tài chính của quốc gia.

- Về các nội dung khác: tiếp tục rà soát các khái niệm nêu tại dự thảo Luật để bảo đảm phù hợp với thông lệ và dễ hiểu; rà soát các quy định về thẩm quyền thanh tra, xử lý vi phạm hành chính, về tổ chức xã hội-nghề nghiệp... bảo đảm thống nhất với các quy định của pháp luật.

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị cơ quan soạn thảo hoàn thiện hồ sơ theo tinh thần trên và giao Ủy ban Kinh tế của Quốc hội thẩm tra chính thức dự án Luật Chứng khoán (sửa đổi). Trường hợp sau khi hoàn chỉnh hồ sơ và báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội cho thấy đủ điều kiện thì sẽ trình Quốc hội xem xét cho ý kiến lần đầu tại kỳ họp thứ 7. 

9. Về kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai tại đô thị từ khi Luật Đất đai năm 2013 có hiệu lực đến hết năm 2018”

Trên cơ sở báo cáo của Đoàn giám sát, ý kiến thảo luận tại phiên họp, Ủy ban Thường vụ Quốc hội kết luận như sau:

Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá Đoàn giám sát có nhiều cố gắng, hoàn thành nội dung giám sát, bảo đảm tiến độ, yêu cầu của cuộc giám sát và đã có Báo cáo kết quả giám sát chất lượng khá tốt. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng ghi nhận và đánh giá cao sự phối hợp của Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương với Đoàn giám sát; đồng thời khẳng định Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương đã có nhiều cố gắng, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong công tác quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai tại đô thị thời gian qua. 

Giao Đoàn giám sát nghiên cứu, tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp, hoàn thiện Báo cáo giám sát và dự thảo Nghị quyết giám sát trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 7 sát với nội dung giám sát. Trong các đánh giá, nhận định cần cân đối mặt đạt được và tồn tại, hạn chế; rà soát các kiến nghị, giải pháp để bảo đảm tính khả thi và phù hợp với những tồn tại, hạn chế đã nêu. Tiếp tục hoàn thiện Video Clip về hoạt động của Đoàn giám sát để trình chiếu tại kỳ họp Quốc hội theo đúng yêu cầu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

10. Về dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản tán thành với Tờ trình của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật của Quốc hội về đánh giá tình hình thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018 và các tháng đầu năm 2019; các nguyên tắc lập Chương trình năm 2020, điều chỉnh Chương trình năm 2019. Về các dự án cụ thể, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất với dự kiến như sau:

10.1.Về điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019:

- Đưa ra khỏi Chương trình năm 2019 dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế bảo vệ môi trường.

- Điều chỉnh thời gian trình đối với 03 dự án, cụ thể:

+ Lùi thời gian trình từ Chương trình cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2019) sang cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019) đối với dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp.

+ Lùi thời gian trình 02 dự án luật từ Chương trình cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2019) sang Chương trình năm 2020, gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai; Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi).

- Bổ sung 05 dự án vào Chương trình năm 2019, cụ thể:

+ Bổ sung vào Chương trình kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2019) dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và Luật Sở hữu trí tuệ (xem xét, thông qua theo quy trình, thủ tục rút gọn tại một kỳ họp).

+ Bổ sung vào Chương trình cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019) để thông qua tại kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2020) đối với 03 dự án, gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giám định tư pháp; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống thiên tai và Luật Đê điều; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xây dựng.

+ Bổ sung vào Chương trình dự án Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng (sửa đổi) (trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội tháng 12/2019).

10.2. Về dự kiến Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020:

- Sắp xếp vào Chương trình năm 2020 những dự án được chuyển tiếp từ Chương trình năm 2019.

- Đưa vào Chương trình cho ý kiến tại kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2020), thông qua tại kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2020) đối với 07 dự án, gồm: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai; Luật Khám bệnh, chữa bệnh (sửa đổi); Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sửa đổi); Luật Biên phòng Việt Nam; Luật Thỏa thuận quốc tế; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo vệ môi trường; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính.

- Đưa vào Chương trình cho ý kiến tại kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2020) đối với 02 dự án, gồm: Luật Thi đua, khen thưởng (sửa đổi); Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS).

10.3. Đối với việc sửa đổi một số luật khác:

- Đề nghị Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam khẩn trương chuẩn bị hồ sơ đề nghị sửa đổi Luật Công đoàn theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định bổ sung vào Chương trình năm 2019 trình Quốc hội xem xét, thông qua chậm nhất tại kỳ họp thứ 8 (tháng 10/2019), bảo đảm đồng bộ với dự án Bộ luật Lao động (sửa đổi).

- Đề nghị Chính phủ khẩn trương chỉ đạo chuẩn bị hồ sơ đề nghị sửa đổi Luật Nhà ở theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định bổ sung vào Chương trình trình Quốc hội xem xét, thông qua trong năm 2019.

10.4. Trên cơ sở đánh giá về tình hình thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018 và các tháng đầu năm 2019, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị:

- Chính phủ, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan nâng cao hơn nữa trách nhiệm, thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong công tác xây dựng pháp luật; khẩn trương khắc phục triệt để những tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra trong Tờ trình của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật. Đồng thời, nghiên cứu, rà soát để đề xuất sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các đạo luật đáp ứng yêu cầu thực tiễn, bảo đảm triển khai thực hiện nghị quyết của Trung ương, chỉ đạo của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Kế hoạch tổ chức triển khai thi hành Hiến pháp.

- Chính phủ, các cơ quan có liên quan khẩn trương chuẩn bị hồ sơ các dự án có trong Chương trình theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, bảo đảm chất lượng và tiến độ trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; khắc phục triệt để tình trạng chậm gửi hồ sơ dẫn đến phải điều chỉnh chương trình.

- Cơ quan thẩm tra của Quốc hội phối hợp chặt chẽ ngay từ đầu với cơ quan trình, cơ quan soạn thảo, đôn đốc việc chuẩn bị các dự án đưa vào Chương trình bảo đảm chất lượng theo đúng tiến độ; thực hiện tốt việc thẩm tra nội dung các dự án trước khi trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội; kịp thời báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội những vấn đề phát sinh.

Trên cơ sở Tờ trình của Chính phủ và ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, giao Thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc hội chủ trì phối hợp với các cơ quan có liên quan của Quốc hội, Chính phủ, giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội xây dựng Tờ trình và dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019 để trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 7.

11. Về dự kiến Chương trình giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2020

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí với Báo cáo của Tổng Thư ký Quốc hội về dự kiến chương trình giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội năm 2020. 

Ủy ban Thường vụ Quốc hội dự kiến 02 chuyên đề và giao 02 Ủy ban chủ trì giúp Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức giám sát: việc thực hiện chính sách pháp luật về bảo vệ trẻ em và phòng, chống xâm hại trẻ em (Ủy ban Tư pháp chủ trì) và việc thực hiện các Hiệp định thương mại tự do (FTA) mà Việt Nam là thành viên (Ủy ban Đối ngoại chủ trì). Đồng thời, báo cáo để Quốc hội quyết định giám sát tối cao 01 chuyên đề tại kỳ họp thứ 9; chuyên đề còn lại sẽ do Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát tại phiên họp tháng 9/2020.

Quốc hội sẽ tiến hành giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội khóa XIV về giám sát chuyên đề, chất vấn tại kỳ họp thứ 10 (tháng 10/2020). 

Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội căn cứ vào điều kiện và khả năng để quyết định số lượng các chuyên đề giám sát năm 2020 cho phù hợp và đẩy mạnh, tăng cường hoạt động giải trình trong năm 2020. 

Giao Tổng Thư ký Quốc hội tiếp thu ý kiến Ủy ban Thường vụ Quốc hội, phối hợp với 02 Ủy ban liên quan hoàn chỉnh nội dung chuyên đề giám sát, hoàn thiện hồ sơ dự thảo nghị quyết về chương trình giám sát của Quốc hội năm 2020 và các văn bản có liên quan, trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp thứ 7. Đồng thời, phối hợp với Thường trực Hội đồng Dân tộc, Thường trực các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan hữu quan đề xuất với Ủy ban Thường vụ Quốc hội về cách thức tiến hành triển khai các hoạt động giám sát và điều hòa, phối hợp hoạt động giám sát để tránh trùng lặp, nâng cao hơn nữa hiệu quả giám sát. 

12. Báo cáo của Chính phủ về việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2018

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản thống nhất với Báo cáo của Chính phủ, Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội và cho rằng, các báo cáo đã đánh giá khá toàn diện kết quả đạt được cũng như tồn tại, hạn chế trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2018. Kết quả thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2018 có sự tiến bộ hơn năm trước. Sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ đã tạo những chuyển biến rõ nét trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, mang lại hiệu quả tích cực, hạn chế lãng phí và tiêu cực. Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ lưu ý một số vấn đề sau:

- Việc cắt giảm điều kiện kinh doanh để giảm thủ tục hành chính và tạo sự thông thoáng trong quản lý là cần thiết, song cần bảo đảm không buông lỏng quản lý. Rà soát khắc phục tình trạng một số chính sách phù hợp nhưng triển khai trong thực tiễn chưa tốt hoặc chưa kịp thời, dẫn đến thiếu hiệu quả.

- Có giải pháp hữu hiệu để khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực hành tiết kiệm, chống lãng phí như: triển khai và giải ngân chậm đối với một số dự án đầu tư công, đặc biệt là 2 công trình trọng điểm quốc gia; xử lý các dự án yếu kém, cổ phần hóa doanh nghiệp còn chậm; lãng phí trong quản lý tài sản công, đất đai, tài nguyên, môi trường; bộ máy của một số tổ chức còn cồng kềnh; tình trạng lễ hội, ma chay, cưới xin còn nặng nề, một số địa phưuowng, nhất là ở nông thôn bắt đầu tái diễn việc cưới xin, ma chay kéo dài; việc thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” còn hạn chế… 

- Một số địa phương chấp hành chưa tốt, chưa gửi báo cáo hoặc chưa thực hiện chấm điểm theo quy định. Đề nghị Chính phủ cần biểu dương khen thưởng các địa phương làm tốt, phê bình nghiêm túc các địa phương, tổ chức, cá nhân làm chưa tốt, xử lý nghiêm các vi phạm, chỉ rõ trách nhiệm của người đứng đầu và lưu ý thu hồi tài sản do lãng phí. 

Đề nghị Chính phủ và Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và chuẩn bị báo cáo để gửi Quốc hội theo quy định.

13. Về chuẩn bị kỳ họp thứ 7 của Quốc hội

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí với Báo cáo của Tổng Thư ký Quốc hội về việc chuẩn bị kỳ họp thứ 7, đồng thời đề nghị lưu ý một số vấn đề sau:

- Bổ sung dự thảo Nghị quyết phê chuẩn việc gia nhập Công ước số 98 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) về Áp dụng những nguyên tắc của quyền tổ chức và thương lượng tập thể trình Quốc hội xem xét, thông qua tại kỳ họp thứ 7. Giao Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội tiến hành thẩm tra nội dung này; Ủy ban Tư pháp của Quốc hội tiếp tục phối hợp với cơ quan soạn thảo dự án Luật Thi hành án hình sự (sửa đổi) nghiên cứu, bổ sung nội dung nội luật hóa Công ước số 29 của ILO liên quan đến chống lao động cưỡng bức trong quá trình xây dựng dự thảo Luật này để nâng cao trách nhiệm của Việt Nam với tư cách là thành viên của ILO.

- Giao Ủy ban Pháp luật của Quốc hội tham mưu giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019.

- Chính phủ tiếp tục rà soát các dự án luật cần sửa đổi, bổ sung sau khi Việt Nam tham gia Hiệp định CPTPP.

- Nhất trí việc xin ý kiến đại biểu Quốc hội bằng hệ thống điện tử về một số nội dung quan trọng, còn ý kiến khác nhau của dự án, dự thảo. Tuy nhiên, cần nghiên cứu, thiết kế giao diện bảo đảm phù hợp với mục đích xin ý kiến. Đồng thời, giao Văn phòng Quốc hội nghiên cứu để áp dụng một số chương trình phần mềm phục vụ đại biểu Quốc hội (có thể thực hiện ngay tại kỳ họp này).

- Về cách thức tiến hành một số nội dung: giảm 0,5 ngày thảo luận ở hội trường về kinh tế - xã hội, ngân sách nhà nước; 0,5 ngày chất vấn và trả lời chất vấn. Tiếp tục nghiên cứu cải tiến cách thức tiến hành chất vấn.

Giao Tổng Thư ký Quốc hội tiếp thu ý kiến tại phiên họp để hoàn thiện dự kiến chương trình kỳ họp, gửi xin ý kiến đại biểu Quốc hội; đồng thời, tiếp tục phối hợp đôn đốc chuẩn bị nội dung và các điều kiện bảo đảm để phục vụ tốt kỳ họp, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp tháng 5/2019.

14. Về danh mục dự án sử dụng dự phòng kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 nguồn ngân sách trung ương và việc bổ sung danh mục mới vào Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 (theo Tờ trình số 110/TTr-CP ngày 29/3/2019 của Chính phủ)

14.1. Về phân bổ, sử dụng nguồn dự phòng chung Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020

Do Tờ trình của Chính phủ chưa làm rõ phương án tăng, giảm nguồn vốn trong nước và vốn nước ngoài, chưa bảo đảm được cân đối nguồn vốn theo đúng Nghị quyết số 71/2018/QH14, chưa đánh giá kỹ thực trạng tác động của việc bố trí các dự án mới, khả năng phát sinh nợ xây dựng cơ bản, nợ nguồn vốn. Mặt khác, các dự án mới đưa vào Kế hoạch đầu tư công trung hạn thuộc thẩm quyền của Quốc hội; nhiều dự án chưa đủ thủ tục để có thể quyết định phân bổ vốn. Do vậy, Ủy ban Thường vụ Quốc hội chưa đủ căn cứ quyết định việc phân bổ, sử dụng nguồn dự phòng chung ngân sách trung ương của kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 theo Tờ trình của Chính phủ..

Đề nghị Chính phủ làm rõ phương án tăng nguồn vốn nước ngoài ngân sách trung ương và giảm tương ứng nguồn vốn vay trong nước; rà soát các dự án đã được bố trí kế hoạch đầu tư công trung hạn không thể giải ngân hết trong kỳ kế hoạch 2016-2020 để điều chuyển cho các dự án có đầy đủ thủ tục, có khả năng giải ngân và hoàn thành đưa vào sử dụng nhằm thực hiện hiệu quả vốn đầu tư công. Việc điều chuyển thực hiện theo thẩm quyền quy định của pháp luật.

Đề nghị Chính phủ xác định rõ khả năng cân đối nguồn vốn để bố trí cho các dự án theo trật tự ưu tiên tại khoản 1 Điều 2 của Nghị quyết số 71/2018/QH14, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về danh mục, mức vốn dự kiến phân bổ cho từng dự án cụ thể tại phiên họp tháng 5/2019 để chuẩn bị tốt các điều kiện theo quy định, báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp thứ 7. Chú ý đến các nhiệm vụ quy hoạch, công tác chuẩn bị đầu tư, thực hiện các chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số miền núi, chính sách cho nhà ở xã hội, các dự án của ngành Tư pháp, hiện đại hóa công nghệ thông tin trong các cơ quan Đảng, Nhà nước.

Các vấn đề còn chưa rõ, vướng mắc trong quy định của pháp luật về đầu tư công, đề nghị Chính phủ có văn bản báo cáo cụ thể gửi Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Ủy ban Pháp luật của Quốc hội chịu trách nhiệm giúp Ủy ban Thường vụ Quốc hội giải thích pháp luật để bảo đảm có căn cứ rõ ràng, minh bạch trong quá trình thực thi pháp luật.

14.2. Đối với nguồn vốn 10.000 tỷ đồng từ việc điều chỉnh giảm nguồn vốn cho các dự án quan trọng quốc gia

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản nhất trí với dự kiến về hướng sử dụng nguồn vốn 10.000 tỷ đồng như Tờ trình của Chính phủ, trừ dự án thanh toán nợ đền bù, giải phóng mặt bằng dự án đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng.

Đề nghị Chính phủ khẩn trương rà soát, xây dựng danh mục, mức vốn cụ thể cho các dự án theo đúng nội dung, trật tự ưu tiên được quy định tại khoản 1 Điều 3 Nghị quyết số 71/2018/QH14 của Quốc hội, giao Ủy ban Tài chính, Ngân sách của Quốc hội thẩm tra, rà soát và báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định tại phiên họp tháng 5/2019.

14.3. Đối với tuyến Đường ven biển, Chính phủ chưa làm rõ được nguồn vốn và các điều kiện khác theo quy định tại khoản 5 Điều 3 Nghị quyết số 71/2018/QH14 nên không có căn cứ để Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét. Do vậy đề nghị Chính phủ rà soát lại bảo đảm yêu cầu của Nghị quyết 71/2018/QH14.

14.4. Về nguồn vốn từ việc điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương trong nước (bao gồm trái phiếu Chính phủ) giai đoạn 2016-2020 cho các dự án từ điều chỉnh nội bộ và nguồn lực dự phòng 10% tại bộ, ngành, địa phương theo Tờ trình số 111/TTr-CP ngày 29/3/2019 của Chính phủ:

- Không sử dụng dự phòng 10% vốn ngân sách trung ương tại bộ, ngành, địa phương 3.888,363 tỷ đồng để điều chỉnh tăng cho các dự án đã có trong Kế hoạch đầu tư công trung hạn nhưng chưa chấp hành nghiêm ý kiến chỉ đạo của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và của Chính phủ, chưa điều chỉnh quyết định đầu tư theo Văn bản số 102/UBTVQH14-TCNS của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (theo danh mục trong Báo cáo thẩm tra số 1482/BC-UBTCNS14 ngày 12/4/2019).

- Đối với các dự án đã có danh mục Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, có đủ thủ tục đầu tư và chỉ điều chỉnh trong nội bộ của bộ, ngành, địa phương thì do Thủ tướng Chính phủ quyết định theo thẩm quyền được quy định tại khoản 3 Điều 75 Luật Đầu tư công.

- Đối với các dự án đã có trong danh mục Kế hoạch đầu tư công trung hạn  giai đoạn 2016-2020, có đủ thủ tục đầu tư nhưng điều chuyển giữa bộ, ngành và địa phương: Đề nghị Chính phủ rà soát, xây dựng danh mục, số vốn cắt giảm, tăng thêm của từng dự án, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.

- Đối với các dự án chưa có trong danh mục Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020 nhưng cấp bách và có nguồn bảo đảm từ dự phòng 10% của bộ, ngành, địa phương: Đề nghị Chính phủ rà soát, xây dựng danh mục, mức vốn dự kiến bố trí cho từng dự án, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp tháng 5/2019 cho ý kiến trước khi trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp thứ 7.

- Đối với 02 dự án của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với số vốn điều chỉnh là 1.602 tỷ đồng: nếu Chính phủ đã thực hiện đúng theo Thông báo kết luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội số 1561/TB-TTKQH (văn bản do Tổng Thư ký Quốc hội thông báo) thì Thủ tướng Chính phủ điều chỉnh trong nội bộ nguồn dự phòng Kế hoạch đầu tư công trung hạn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo thẩm quyền.

14.5. Về một số nội dung giao kế hoạch đầu tư công trung hạn

- Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí giao kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2016-2020 cho Dự án nâng cấp tuyến đường bộ nối hai tỉnh Phú Yên và tỉnh Gia Lai như Tờ trình của Chính phủ.

- Ủy ban Thường vụ Quốc hội thống nhất đề nghị Chính phủ trình Quốc hội xem xét, quyết định bổ sung Tiểu dự án Nạo vét thoát lũ khẩn cấp sông Cổ Cò đoạn qua địa phận thành phố Đà Nẵng thay cho Tiểu dự án 1 “Đê kè Mân Quang (đoạn nối tiếp Đê, kè Bạch Đằng Đông)”.

Do thời gian tổ chức thực hiện không còn nhiều, để bảo đảm triển khai tích cực, có hiệu quả Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu Chính phủ rà soát, đánh giá kết quả thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội về kế hoạch đầu tư công, xem xét kiến nghị với Quốc hội giải quyết các tồn tại, vướng mắc, phương án phân bổ, danh mục dự án theo thẩm quyền Quốc hội để xử lý tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XIV.

15. Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua 07 Nghị quyết:

- Về việc thành lập, giải thể, điều chỉnh địa giới hành chính một số đơn vị hành chính cấp xã và thành lập thành phố Long Khánh thuộc tỉnh Đồng Nai.

- Điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019.

- Phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, kiêm nhiệm Liên bang Micronesia.

- Phê chuẩn Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội khóa XIV.

- Điều động, phê chuẩn Ủy viên chuyên trách Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa XIV.

- Phê chuẩn miễn nhiệm chức vụ Phó Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh khóa XIV đối với ông Lê Đình Nhường.

- Về việc cho thôi làm nhiệm vụ đại biểu Quốc hội khóa XIV đối với ông Lê Đình Nhường.

*

*          *

Ủy ban Thường vụ Quốc hội yêu cầu các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khẩn trương triển khai thực hiện kết luận, nghị quyết của phiên họp.

Cổng Thông tin điện tử Quốc hội